HIẾN PHÁP VI HIẾN
Hoàng Xuân Phú
pháp vi hiến
quyền bất chính
Một hành vi hay văn bản được coi là vi
phạm hiến pháp, gọi tắt là vi hiến,
nếu nó vi phạm một quy định nào đó
trong hiến pháp.
Văn bản pháp luật vi hiến thì không
hiếm. Nhưng hiến pháp mà cũng vi hiến thì hiếm
hoi đến mức có thể coi là “đặc sản” của
chế độ. Tiếc rằng, Hiến
pháp 2013 – do Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 28
tháng 11 năm 2013 – lại thuộc loại ấy. Chúng ta hãy
cùng nhau phân tích mấy điều khoản vi hiến để
làm sáng tỏ nhận định này.
Vì mọi điều khoản trong một bản hiến
pháp đều được xem là “chuẩn mực”, nên khi
hai nội dung mâu thuẫn với nhau thì có thể dùng điều
này phủ định điều kia và ngược lại, để cuối cùng
thì cả hai đều trở thành vi hiến. Tuy nhiên, ta sẽ
không phủ định triệt để cả hai, mà “tha” cho
điều khoản có vị thế ưu tiên hơn trong hiến
pháp, và dùng nó để đánh giá những điều khoản khác.
Vậy căn cứ vào đâu để xác định vị thế ưu tiên
trong hiến pháp? Theo tư duy của các nhà lập hiến,
chắc hẳn Chương I có vị thế ưu tiên nhất, và
Chương II có vị thế ưu tiên hơn (tức là quan
trọng hơn) so với các chương sau. Trong nội bộ một
chương, điều được đặt lên trước có lẽ cũng được
coi là quan trọng hơn điều bị đặt ở phía sau.
Để chứng minh một điều khoản nào đó
của Hiến pháp 2013 là vi hiến, ngoài những quy tắc
suy luận lô-gích tối thiểu, ta sẽ chỉ dựa vào bản
thân Hiến pháp để lập luận. Kể cả khi trích dẫn
Hiến
chương Liên hợp quốc hay Tuyên
ngôn Quốc tế Nhân quyền 1948, thì không có nghĩa là
viện dẫn văn bản ngoại lai, mà chỉ nhằm khẳng định
đối tượng đang được khảo sát vi phạm Điều
12 Hiến pháp 2013, cam kết rằng:
“Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam… tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều
ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là thành viên.”
Bài này được chia thành 5 phần như sau:
Phần 1 (Bớt xén quyền con người)
phân tích tính vi hiến của Điều
14 Hiến pháp 2013, quy định rằng “các quyền con
người… được công nhận… theo Hiến pháp và pháp
luật”.
Phần 2 (Ép thầy tu cầm súng)
bàn về tính vi hiến của Điều
45 Hiến pháp 2013, quy định rằng “công dân phải
thực hiện nghĩa vụ quân sự”.
Phần 3 (Bắt người dưng thờ
phụng) chỉ ra sự vi hiến của Điều
65 Hiến pháp 2013, đòi hỏi “Lực lượng vũ trang
nhân dân tuyệt đối trung thành… với Đảng… bảo vệ…
Đảng… và chế độ xã hội chủ nghĩa… thực hiện
nghĩa vụ quốc tế”.
Phần 4 (Tước đoạt quyền sở
hữu) chứng minh sự vi hiến của Điều
53 Hiến pháp 2013, quy định rằng “Đất đai… là
tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại
diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”.
Phần 5 (Chiếm quyền lực Nhân dân)
vạch ra tính vi hiến của Điều
4 Hiến pháp 2013, mặc định rằng “Đảng Cộng
sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và
xã hội”, và tính vi hiến của Điều
9 Hiến pháp 2013, ấn định rằng “Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân; đại diện… quyền… của Nhân dân”.
Để tránh hiểu lầm là sự vi hiến
của Hiến pháp 2013 chỉ dừng lại ở 6 điều khoản kể
trên, đoạn kết của bài này đề cập thêm một ví dụ
vi hiến, đó là Điều
10 Hiến pháp 2013, quy định rằng “Công đoàn Việt
Nam là tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp công
nhân và của người lao động… đại diện cho người
lao động… bảo vệ quyền, lợi ích… của người lao
động”.
Ba trong số bảy nội dung vi hiến kể
trên đã được góp ý và bị phê phán rất nhiều trong
quá trình thảo luận Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992.
Song nhà cầm quyền vẫn bất chấp, cố bám giữ bằng
được. Khi tranh luận về bản Dự thảo, cả hai phía đều
dựa chủ yếu vào quan điểm nhận thức để bảo vệ
hay bác bỏ. Lập trường quá khác nhau, nên khó tránh khỏi
quá đà, lắm lúc còn nặng lời thóa mạ. Và như một
bản năng, mỗi lần đuối lý, thì bộ máy lý luận và
tuyên truyền của nhà cầm quyền lại thường quy chụp
những ý kiến trái chiều là thù địch hay phản động.
Bây giờ, trong bài viết này, mọi lập luận chỉ đơn
thuần dựa trên Hiến pháp 2013. Cho nên, nếu vẫn cố quy
chụp các kết luận được rút ra ở đây là phản động,
thì chẳng khác gì coi Hiến pháp của chế độ đương
thời là phản động.
1. Bớt xén quyền con người
Khoản 1 Điều
14 của Hiến pháp 2013 viết rằng:
“Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, các quyền con người, quyền
công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã
hội được công nhận, tôn trọng, bảo
vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.”
Đây là một điều khoản vi hiến rất
tinh vi, bởi vì chất vi hiến ẩn khuất trong một
mệnh đề được viết gián đoạn: “Các quyền con
người… được công nhận… theo Hiến pháp và pháp
luật”. Điều đó cũng có nghĩa là: Các quyền con
người chỉ được công nhận theo Hiến
pháp và pháp luật. Nếu quyền con người nào không hoặc
chưa được Hiến pháp và pháp luật công nhận đích
danh, thì không hoặc chưa được thừa nhận.
Để chứng minh nhận định trên, ta cần
chỉ ra rằng cụm từ “theo Hiến pháp và pháp luật”
được gắn với cả bốn động từ trong cái mớ lòng
thòng “được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo
đảm”. Thật vậy, giả sử cụm từ “theo Hiến
pháp và pháp luật” chỉ gắn với động từ cuối
cùng là “đảm bảo”, thì phần còn lại (trước
đó) sẽ chứa đựng nội dung (hoàn chỉnh) là:
“Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, các quyền con người được công nhận, tôn
trọng, bảo vệ.”
Câu này ở thể bị động, nhằm hiến
định nghĩa vụ của Nhà nước. Khi chuyển sang thể
chủ động, ta thu được mệnh đề:
“Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo
vệ các quyền con người.”
Song nội dung này đã có trong Điều
3 Hiến pháp 2013, viết rằng:
“Nhà nước bảo đảm và
phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận,
tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền
con người, quyền công dân.”
Vậy thì việc gì phải nhắc lại nó một
lần nữa ở Điều
14?
Lập luận vừa rồi có lẽ chưa đủ để
chứng minh nhận định trên, bởi vì viết trùng lặp là
một căn bệnh của Hiến pháp 2013. Cho nên, cần viện dẫn
thêm cả Hiến
pháp 1992, trong đó quy định rằng:
“Điều
50 Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, các quyền con người về chính
trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được
tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và
được quy định trong Hiến pháp và luật.”
“Điều
51 … Quyền và nghĩa vụ của
công dân do Hiến pháp và luật quy định.”
Rõ ràng, Hiến pháp 1992 nhấn mạnh đến
hai lần, rằng “các quyền con người… được…
thể hiện ở các quyền công dân và được quy
định trong Hiến pháp và luật“ và “quyền…
của công dân do Hiến pháp và luật quy định“.
Hệ quả pháp lý là: Những quyền nào không “được
quy định trong Hiến pháp và luật” thì không được
nhà cầm quyền thừa nhận. Hơn thế nữa, vì “các
quyền con người” chỉ “được… thể hiện ở
các quyền công dân”, nên Hiến pháp 1992 không thừa
nhận quyền con người của những người Việt bị
mất quyền công dân (chẳng hạn trong thời gian chấp hành
án tù giam) và của những người nước ngoài đang có mặt
ở Việt Nam (do họ không phải là công dân Việt Nam).
Vì Hiến
pháp 2013 “kế thừa” Hiến pháp 1992, như được
khẳng định trong Lời nói đầu, nên ý “quyền
con người được công nhận theo Hiến pháp và pháp luật”
tại Điều
14 Hiến pháp 2013 là kế thừa của ý “quyền công
dân được quy định trong Hiến pháp và luật” tại
Điều
50 và Điều
51 của Hiến pháp 1992 mà thôi.
Suốt mấy chục năm qua, nhà cầm quyền
luôn dị ứng với khái niệm “quyền con người”,
coi “nhân quyền” như một thứ xấu xa, cấm kỵ.
Mặc dù đó là những quyền hiển nhiên được Tạo
hóa ban cho mọi người sinh ra trên Trái đất, như đã
được trích dẫn trong “Tuyên
ngôn độc lập” khai sinh nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Không thể phủ định được mãi, giờ đây họ
buộc phải “chấp nhận khái niệm quyền con người”
trong Hiến pháp 2013. Để tiệm cận được cái chân lý
quá hiển nhiên ấy, giới cầm quyền phải vật lộn rất
vất vả với chính bản thân mình, đến mức cho rằng cú
nhích quá muộn màng đó là “một bước tiến rất
lớn”, như đã thể hiện trong lời phát biểu của
ông Phan Trung Lý, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc
hội khóa XIII và Trưởng Ban Biên tập Dự thảo sửa
đổi Hiến pháp năm 1992:
Cần phải lưu ý rằng: Đại từ nhân xưng
“Chúng ta” chỉ đúng với ngữ cảnh tâm sự
trong nội bộ giới cầm quyền. Còn khi
họp báo, nghĩa là nói với “người ngoài”,
thì ông Lý nên xưng “Chúng tôi” cho chính xác.
Bởi vì đối với quảng đại Nhân dân thì quyền con
người là một khái niệm hiển nhiên, đến mức…
phải ngạc nhiên: Tại sao họ lại “chậm hiểu” đến
như vậy? “Chậm” thì sao không tránh sang một
bên, để rộng đường cho Nhân dân đi tới tương lai?
Qua khẳng định của ông Trưởng Ban Biên
tập Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm
1992, ta thấy rõ rằng nhà cầm quyền vẫn chưa
chịu thừa nhận quyền con người một cách đầy đủ,
mà mới chỉ dừng lại ở mức “thể hiện quyền
con người trong hiến pháp bằng những quy định cụ thể”.
Sao lại ì ạch, khó nhọc đến như vậy? Làm hiến pháp,
làm luật, thì phải hiểu được kiến thức sơ đẳng
là: Dù muốn thì cũng không thể quy định hay liệt kê
hết thảy mọi thứ trong hiến pháp, pháp luật, và nếu
điều gì không được liệt kê thì không có nghĩa là nó
bị phủ nhận. Để tránh hiểu lầm, 222 năm trước
các nhà lập hiến Mỹ đã bổ sung thêm điều sau đây
vào Hiến pháp Mỹ:
“Việc liệt kê một số quyền trong
Hiến pháp không có nghĩa là phủ nhận hay hạ thấp những
quyền khác của người dân.” (Tu
chính IX)
Quyền công dân có thể mang tính đặc thù
của từng quốc gia, nhưng quyền con người thì mang
tính phổ quát trên toàn thế giới, chứ không phải là
thứ do nhà cầm quyền của từng nước ban phát.
Bình thường thì Nhà nước phải thừa nhận tất cả
các quyền con người, cho dù các quyền đó có được đề
cập cụ thể trong Hiến pháp và pháp luật hay không.
Quyền con người được đề cập trong Điều
3 Hiến pháp 2013 phải mang ý nghĩa như vậy. Do đó,
việc Khoản
1 Điều 14 Hiến pháp 2013 hạn chế quyền
con người, chỉ “công nhận… theo Hiến pháp và pháp
luật”, là vi phạm Điều
3 Hiến pháp 2013.
Điều
56 Hiến chương Liên hợp quốc đòi hỏi:
“Tất cả thành viên cam kết bằng các
hành động chung hoặc riêng trong sự nghiệp hợp tác với
Liên hợp quốc để đạt được những mục đích ở
Điều 55.”
Trong số các mục đích được nêu ở Điều
55 có:
“Tôn trọng và tuân thủ triệt để các
quyền con người và các quyền tự do cơ bản của tất
cả mọi người không phân biệt chủng tộc,
giới tính, ngôn ngữ hay tôn giáo.”
Điều
1 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền khẳng định:
“Mọi người sinh ra đều
được tự do và bình đẳng về nhân
phẩm và các quyền.”
Rõ ràng, việc Khoản
1 Điều 14 Hiến pháp 2013 hạn chế quyền con người
ở Việt Nam là vi phạm nguyên tắc “các quyền con
người… không phân biệt chủng tộc” và “mọi
người sinh ra đều… bình đẳng về… các quyền”.
Trong số các quyền con người chưa
được nhà cầm quyền Việt Nam “công
nhận… theo Hiến pháp và pháp luật” có
quyền “tự do tư tưởng”. Vậy là vi phạm Điều
18 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền:
“Mọi người có quyền tự do
tư tưởng, lương tâm và tôn giáo.”
Đó là một quyền rất cơ bản, là tiền
đề của nhiều quyền tự do khác. Bởi lẽ, nếu không
có quyền “tự do tư tưởng”, tức là “tự
do nghĩ khác”, thì cái gọi là “tự
do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội
họp, lập hội, biểu tình” cũng chỉ là một thứ
“tự do nô lệ”, “tự do phụ họa”, dành
riêng cho những ai chỉ biết ca ngợi nhà cầm quyền và
“ngân nga” tư tưởng được coi là chính thống
mà thôi. Đúng như Rosa
Luxemburg (1871-1919) – nhà lý luận Mác-xít tiền bối
bậc thầy của những người cộng sản Việt Nam – đã
viết trong tác phẩm “Về cách mạng Nga” (Zur
russischen Revolution – Xuất bản lần đầu vào năm
1922, bàn về cuộc cách mạng của những người cộng sản
Nga, tạo dựng ra chế độ Liên
bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết):
“Tự do mà lại chỉ dành cho những
người ủng hộ chính phủ, chỉ dành cho các đảng viên
của một đảng – dù họ đông bao nhiêu đi nữa – thì
đó không phải là tự do. Tự do luôn chỉ là tự
do của những người nghĩ khác.”
Đáng lưu ý là: Trong Hiến
pháp 2013, một số quyền con người bị hạn chế
bằng cách chỉ được thể hiện dưới dạng quyền
công dân, ví dụ như:
“Công dân có quyền tự do
đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước
ngoài và từ nước ngoài về nước.” (Điều
23)
“Công dân có quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp,
lập hội, biểu tình.” (Điều
25)
Hệ quả pháp lý là: Theo Khoản
1 Điều 14 thì những quyền này chỉ còn là quyền
công dân, không được công nhận là quyền
con người, nên những người không mang quốc tịch
Việt Nam không được hưởng trên đất Việt Nam. Chẳng
hạn, người gốc Việt mang quốc tịch nước ngoài có
thể không được về quê hương Việt Nam, hay khi đang ở
trên đất Việt Nam thì người nước ngoài không có các
quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận
thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Như vậy là
vi phạm ba điều khoản sau đây của Tuyên
ngôn Quốc tế Nhân quyền:
“Mọi người đều có quyền
rời khỏi lãnh thổ bất kỳ nước nào, kể cả nước
của mình, và quyền trở về xứ sở.”
(Điều
13)
“Mọi người đều có quyền
tự do ngôn luận và bày tỏ quan điểm; quyền này bao gồm
cả tự do quan điểm mà không bị can thiệp và được tự
do tìm kiếm, thu nhận và quảng bá tin tức và tư tưởng
qua mọi phương tiện truyền thông bất kể biên giới.”
(Điều
19)
“Mọi người đều có quyền
tự do hội họp và lập hội một cách ôn hòa.”
(Điều
20)
Với các chứng cứ kể trên, ta có thể
khẳng định rằng Khoản
1 Điều 14 Hiến pháp 2013 vi phạm Điều
12 Hiến pháp 2013, trong đó cam kết “tuân
thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế
mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”.
Tóm lại, Điều
14 Hiến pháp 2013 là vi hiến, vì nó mẫu
thuẫn với Điều
3 và Điều
12, tức là vi phạm hai điều có vị thế ưu
tiên hơn nó trong cùng Hiến pháp.
Sự vi hiến này không phải là vô tình, mà
là sản phẩm truyền thống của “hội chứng ban
phép”, tức là lối tư duy thống trị,
cho rằng người dân chỉ được làm và chỉ được
hưởng những thứ mà nhà cầm quyền cho phép. Nó
xuất phát từ ngộ nhận, cho rằng thế lực cầm
quyền “cao hơn hẳn” tất thảy Nhân dân và có
“quyền sinh quyền sát” đối với cộng đồng
Nhân dân. Đó là một căn bệnh trầm kha, đã trói buộc
Nhân dân ta và cản trở sự phát triển của Dân tộc ta
suốt mấy chục năm qua, biến Dân ta thành một thứ “nô
lệ tư duy”. Cái gọi là “đổi mới” (được
tiến hành từ những năm 80 của thế kỷ 20) chẳng qua là
nhà cầm quyền chịu “cởi trói”, nói đúng hơn
là “nới trói”, trả lại cho Dân một phần quyền
sinh sống và làm ăn tự do vốn có tự bao đời. Cho nên,
nếu muốn thực sự giải phóng Nhân dân, giải phóng
Dân tộc khỏi xiềng xích, thì phải cương quyết triệt
xóa “hội chứng ban phép” này.
2. Ép thầy tu cầm súng
Điều
45 Hiến pháp 2013 quy định:
“Công dân phải thực hiện nghĩa vụ
quân sự…”
Nghĩa vụ này được cụ thể hóa trong Luật
nghĩa vụ quân sự như sau:
“Điều
3 Công dân nam giới, không
phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín
ngưỡng tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề
nghiệp, nơi cư trú, có nghĩa vụ phục vụ tại
ngũ trong Quân đội nhân dân Việt Nam.“
Khi phục vụ tại ngũ trong quân đội thì
phải luyện tập giết kẻ thù, và trong hoàn cảnh cần
thiết thì cũng phải giết kẻ thù. Mà kẻ thù, dù xấu
xa, phi nghĩa đến đâu, thì cũng là con người. Vì vậy,
bắt cả những người có tín ngưỡng tương tự như “Ngũ
giới” của Phật tử phải “thực hiện nghĩa
vụ quân sự” tức là bắt họ phải tham gia “sát
sinh”, là vi phạm “quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo” của họ. Rõ ràng, Điều
45 vi phạm Điều
24 Hiến pháp 2013, hiến định rằng:
“1. Mọi người có quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một
tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.
2. Nhà nước tôn trọng và bảo
hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
3. Không ai được xâm
phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.“
Lý lẽ trên đơn giản và hiển nhiên đến
mức không thể né tránh câu hỏi: Chẳng nhẽ Quốc hội
không có ai thực sự hiểu và bảo vệ tín ngưỡng, tôn
giáo hay sao? Các đại biểu “vô thần” không hiểu tín
ngưỡng đã đành, chẳng nhẽ các đại biểu mặc áo cà
sa cũng không hiểu nốt?
Hay họ hiểu cả, nhưng chỉ định đưa
“quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo” vào Hiến
pháp để cùng với các quyền tự do báo chí, lập hội,
biểu tình… hóa trang dân chủ cho chế độ, chứ
chẳng hề có ý định tôn trọng các quyền đó? Nghi ngờ
này đã được xác nhận quá nhiều lần trên thực tế,
và nay lại được củng cố thêm bởi Khoản 3 của Điều
24 Hiến pháp 2013, quy định rằng “không ai được…
lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.
Xét về mặt pháp lý, khoản cấm này là hoàn toàn thừa,
vì đã có quy định tổng quát tại Điều
46 Hiến pháp 2013 là “công dân có nghĩa vụ tuân
theo Hiến pháp và pháp luật”, và hệ quả hiển
nhiên là “không ai được vi phạm pháp luật”,
bất luận vì lý do gì, cho dù lợi dụng hay không lợi
dụng một quyền nào đó. Cho nên, có lẽ vai trò của
khoản cấm “lợi dụng” chỉ là tạo cớ để
khước từ hay hạn chế “quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo”, như đã trao đổi trong bài “Teo
dần quyền con người trong Hiến pháp”.
Nếu thực tâm tôn trọng “quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo”, thì các nhà lập hiến CHXHCN
Việt Nam nên thay Khoản 3 của Điều
24 Hiến pháp 2013 bằng Khoản 3 của điều sau đây
trong Hiến
pháp CHLB Đức (Grundgesetz für die Bundesrepublik Deutschland):
(1) Tự do tín ngưỡng, tự do lương tâm
và tự do biểu lộ tôn giáo và thế giới quan là bất
khả xâm phạm.
(2) Việc thực thi tôn giáo mà không bị
quấy rối được bảo đảm.
(3) Không ai có thể bị ép buộc
cầm súng phục vụ chiến tranh trái với lương tâm của
bản thân. Chi tiết được quy định trong một
luật của Liên bang.”
Khoản
3 này đã được đưa vào Hiến pháp CHLB Đức từ năm
1949, cách nay đã hơn 60 năm. Qua đó có thể thấy tư
duy pháp luật và ý thức coi trọng quyền con người của
giới cầm quyền Việt Nam tụt hậu đến mức nào.
Trên phạm vi quốc tế, Nghị
quyết 1995/83 (ban hành ngày 08/03/1995) của Ủy
ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc (The
United Nations Commission on Human Rights, CHR) đã khẳng
định:
“Quyền từ chối phục vụ trong quân
đội của mỗi người vì lý do lương tâm là thể hiện
hợp pháp của quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn
giáo.”
Và còn nhấn mạnh rằng quyền đó dựa
trên Điều
18 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền của Liên
Hợp Quốc (mà Việt Nam là thành viên từ 20/09/1977) và
Điều 18 Công
ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị
(International
Covenant on Civil and Political Rights, mà Việt
Nam gia nhập vào ngày 24/09/1982). Nội dung này cũng được
tái khẳng định trong một số văn kiện khác của CHR, ví
dụ như Nghị
quyết 1998/77 (ban hành ngày 22/04/1998) và Nghị
quyết 2004/35 (ban hành ngày 19/04/2004).
Mới
trúng cử vào Hội
đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc (The
United Nations Human Rights Council, HRC) nhiệm kỳ 2014-2016,
nhà cầm quyền Việt Nam không thể phớt lờ các nghị
quyết kể trên của CHR
(nay được thay thế bởi HRC), và bỏ qua những cam kết
khi ra ứng cử. Vậy mà 15 ngày sau khi trúng cử, Quốc hội
lại thông qua một bản Hiến pháp với Điều
45 bất chấp “quyền từ chối phục vụ trong quân
đội vì lý do lương tâm”. Như thế là Điều
45 vi phạm cả Điều
12 Hiến pháp 2013, hiến định trách nhiệm “tuân
thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế
mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩaViệt Nam là thành viên”.
Sự vi hiến của Điều
45 Hiến pháp 2013 không chỉ dừng ở đó. Để nhận
diện điều bị vi phạm tiếp theo, ta hãy ước lượng
xem quy mô quân đội sẽ lớn thế nào, nếu điều hiến
định này được thực hiện nghiêm túc.
Theo Luật
sửa đổi bổ sung một số điều của Luật nghĩa vụ
quân sự số 43/2005/QH11, “độ tuổi gọi nhập ngũ
trong thời bình từ đủ mười tám tuổi đến hết hai
mươi lăm tuổi” và “thời hạn phục vụ tại
ngũ trong thời bình của hạ sĩ quan và binh sĩ là mười
tám tháng”. Theo
kết quả tổng điều tra dân số năm 2009 thì có 10,8
triệu công dân nam ở độ tuổi 15-19 và 10,0 triệu công
dân nam ở độ tuổi 20-24. Như vậy, nếu phân đều số
công dân nam trong độ tuổi 18-25, thì bình quân mỗi
năm có khoảng 2 triệu công dân nam cần nhập ngũ để
“thực hiện nghĩa vụ quân sự”.
Trong khi đó, theo thông tin của Đại tá
Nguyễn Ánh Dương tại buổi thông báo tình hình cho đoàn
Tùy viên quân sự các nước tại Việt Nam, được tổ
chức vào ngày 30/09/2013, thì tổng
quân số hiện nay của Quân đội nhân dân Việt Nam là
450.000. Để duy trì quân số đó với thời gian phục
vụ tại ngũ tối thiểu là 18 tháng = 1,5 năm, thì mỗi
năm chỉ cần gọi nhập ngũ chưa đến 450.000/1,5 = 300.000
người. Như vậy là có hơn (2.000.000 – 300.000)/2.000.000 =
85% công dân nam không bao giờ phải hay được
phục vụ trong quân đội. Đó là tính toán được đơn
giản hóa, dựa trên thời gian tại ngũ ở mức thấp nhất
(18 tháng). Trên thực tế, bên cạnh lực lượng chuyên
nghiệp đông đảo, rất nhiều quân nhân phải phục vụ
tại ngũ 24 tháng, theo quy định của Điều
14 Luật nghĩa vụ quân sự hiện hành:
“Thời hạn phục vụ tại ngũ trong thời
bình của hạ sĩ quan chỉ huy, hạ sĩ quan và binh sĩ
chuyên môn kỹ thuật do quân đội đào tạo, hạ sĩ quan
và binh sĩ trên tàu hải quân là hai mươi bốn
tháng.”
Và trong số phục vụ tại ngũ còn có rất
nhiều phụ nữ. Vì vậy tỷ lệ công dân nam không bao giờ
phục vụ trong quân đội còn cao hơn hẳn. Thậm chí,
Trung tướng Trần Văn Độ (Chánh án Tòa án Quân sự
Trung ương, Phó Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao) nói
rằng: “Hiện
nay, trong những người đủ tiêu chuẩn, chỉ khoảng 5%
thực hiện nghĩa vụ quân sự”.
Sau khi trừ bớt số được miễn hoặc được
hoãn (nhưng rồi trở nên quá tuổi nhập ngũ nên cũng
thành được miễn) nghĩa vụ quân sự theo quy định của
Điều
29 Luật nghĩa vụ quân sự (sửa đổi năm 2005), và
trừ cả những người được tuyển vào lực lượng Công
an nhân dân, thì tỷ lệ “phi nghĩa vụ quân sự” vẫn
còn rất cao. Như vậy, quy mô quân đội hiện tại tất
yếu dẫn đến kết cục là có rất nhiều công dân nam
không phải hoặc không được “thực hiện nghĩa vụ
quân sự”. Do đó, Điều
45 Hiến pháp 2013 gây ra sự bất bình đẳng
trước pháp luật trên quy mô rất lớn, tức là vi phạm
Điều
16 Hiến pháp 2013, hiến định rằng:
“Mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật.”
Tóm lại, trong Hiến pháp 2013, Điều
45 vi phạm ba điều ở vị thế ưu tiên
hơn, đó là Điều
12, Điều
16 và Điều
24. Vì vậy, Điều
45 Hiến pháp 2013 là vi hiến!
Hệ quả không chỉ dừng ở đó. Trong chế
độ mà tham nhũng ngự trị, hàng năm có hàng triệu công
dân nam có thể phải nhập ngũ theo quy định của pháp
luật, nhưng quân đội lại chỉ cần và chỉ có thể
tiếp nhận một phần rất nhỏ trong số đó, thì dễ
xảy ra tiêu cực trên diện rộng để tránh “thực hiện
nghĩa vụ quân sự”. Nghĩa là, với việc hiến
định “công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự”
tại Điều
45, Quốc hội khóa XIII đã hành động ngược lại với
nghĩa vụ được quy định tại Điều
8 Hiến pháp 2013:
“Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công
chức, viên chức phải… kiên quyết đấu tranh chống
tham nhũng…”
Vậy thì phải khắc phục như thế nào?
Chẳng cần phải sáng tạo ra điều gì mới mẻ, mà chỉ
cần khiêm tốn học hỏi thiên hạ và vận dụng những
kiến thức đã trở thành kinh điển trên thế giới.
Để không vi phạm Điều
24 Hiến pháp 2013 về “quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo” thì phải chấp nhận để những người
khước từ cầm súng vì lý do tín ngưỡng được thực
hiện “nghĩa vụ thay thế”. Một ví dụ đáng để
tham khảo là Điều
12a Hiến pháp CHLB Đức, với hai khoản đầu tiên được
viết như sau:
“(1) Đàn ông đủ 18 tuổi có
thể phải phục vụ trong lực
lượng quân đội, lực lượng biên phòng, hoặc trong một
tổ chức bảo vệ dân sự.”
“(2) Người nào từ chối phục vụ
chiến tranh bằng vũ khí vì lý do lương tâm thì có thể
phải phục vụ thay thế. Thời gian phục
vụ thay thế không được lâu hơn thời gian nghĩa vụ
quân sự. Chi tiết được quy định bằng một luật,
trong đó không được hạn chế quyền tự do xác định
lương lâm và phải đưa ra một khả năng phục vụ thay
thế không liên quan tới lực lượng
quân đội và lực lượng biên phòng.”
Cụ thể hóa điều hiến định trên, Luật
từ chối phục vụ chiến tranh
(Kriegsdienstverweigerungsgesetz) của CHLB Đức quy định
rằng những người không muốn cầm súng phải trải qua
thủ tục xem xét, và nếu được công nhận là “người
từ chối phục vụ chiến tranh”
(Kriegsdienstverweigerer,
conscientious
objector), thì sẽ được thay thế nghĩa vụ quân sự
bằng “phục vụ dân sự” (Zivildienst,
civilian
service). Theo Điều 1 của Luật
phục vụ dân sự của những người từ chối phục vụ
chiến tranh (Gesetz über den Zivildienst der
Kriegsdienstverweigerer) thì nhiệm vụ của họ là “phục
vụ phúc lợi chung, trước hết là trong lĩnh vực phúc
lợi xã hội”, ví dụ như chăm sóc người già, người
tàn tật, hoạt động cứu hộ, chuyên chở bệnh nhân…
“Phục vụ dân sự” thay thế cho
nghĩa vụ quân sự không phải là chuyện mới mẻ. Nước
đầu tiên triển khai “phục vụ dân sự” là Đan
Mạch (vào năm 1917), tiếp sau đó là Hà Lan (1920), Thụy
Điển (1920), Na Uy (1921) và Phần Lan (1931). Ngược lại
với CHLB Đức, một số nước quy định thời
gian “phục vụ dân sự” dài hơn thời gian nghĩa
vụ quân sự, ví dụ như Áo, Hy Lạp, Na Uy và Phần Lan.
Có lẽ đó là một biện pháp để hạn chế tỷ lệ lựa
chọn hình thức “phục vụ dân sự”.
Nếu triển khai chế độ “phục vụ dân
sự”, Điều
45 về “nghĩa vụ quân sự” sẽ thoát khỏi
tình trạng vi phạm Điều
24 Hiến pháp 2013 về “quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo”. Nếu mở rộng diện “phục vụ dân
sự” ra ngoài phạm vi của những người khước từ
cầm súng vì lý do tín ngưỡng, thì có thể hạn chế
phần nào mức độ vi phạm Điều
16 về “bình đẳng trước pháp luật”. Tuy
nhiên, không thể và không nên mở rộng phạm vi
“phục vụ dân sự” đến mức huy động hết tất cả
những người không thực thi “nghĩa vụ quân sự”.
Bởi vì cái giá phải trả cho sự “bình đẳng trước
pháp luật” đối với “nghĩa vụ quân sự”
là quá đắt. Thật vậy, việc tổ chức “phục vụ
dân sự” trên quy mô cả triệu người không chỉ là
rất phức tạp và quá tốn kém, mà đó cũng là nguồn
khổng lồ đẻ ra tiêu cực. Hơn nữa, hiệu quả kinh tế
xã hội và chất lượng của hình thức “phục vụ
dân sự” kém xa so với việc để cho triệu người
đó lao động bình thường, rồi nộp thuế, và dùng tiền
thuế để thuê nhân công chuyên nghiệp làm phúc lợi xã
hội.
Một sáng kiến mới mẻ, có lẽ chỉ có
thể nẩy sinh ở nước CHXHCN Việt Nam, là “cho
phép đóng một khoản tiền để không phải thực hiện
nghĩa vụ quân sự nhằm bảo đảm sự công bằng giữa
những người đủ tiêu chuẩn”. Nó giúp tăng ngân
sách và hạn chế tiêu cực trong quá trình lập danh sách
thực hiện nghĩa vụ quân sự. Chi phí tổ chức cho việc
thu tiền này cũng thấp hơn nhiều so với triển khai “phục
vụ dân sự”. Tuy nhiên, giải pháp này không cải
thiện triệt để tình trạng bất bình đẳng trước
pháp luật, mà ngược lại còn hợp pháp hóa hố
sâu ngăn cách giữa kẻ giàu và người nghèo.
Một biện pháp khả thi để giảm bớt
sự bất bình đẳng là tăng “công suất dùng người”
của quân đội bằng cách rút ngắn thời gian thực hiện
“nghĩa vụ quân sự”, giống như Áo
(6 tháng), Đan Mạch (4 tháng), Estonia (8 tháng) và Hy Lạp
(12 tháng)… Hai câu hỏi nảy sinh là: Có thể
rút thời gian tại ngũ xuống mức nào để vẫn còn đủ
thời gian huấn luyện, nhằm đảm bảo chất lượng chiến
đấu của quân đội? Với mức thời gian đó thì quân
đội đã có đủ chỗ để thu nạp hết những người
phải thực hiện nghĩa vụ quân sự hay chưa?
Giải pháp triệt để thường được
áp dụng trong thời bình là xóa bỏ hoặc tạm dừng chế
độ nghĩa vụ quân sự, và xây dựng quân đội tự
nguyện thay cho quân đội nghĩa vụ. Một số nước
tiêu biểu theo xu hướng này là Anh
(từ 1963), Ba Lan (từ 9/2009), Bồ Đào Nha (từ 10/2004), Đức
(từ 7/2011), Hà Lan (từ 9/1996), Hungary (từ 11/2004), Italia
(từ 7/2005), Mỹ (từ 1973), Pháp (từ 7/2001), Rumani (từ
2007), Tây Ban Nha (từ 1/2002)… Trong số 28 nước tham
gia liên minh quân sự NATO,
chỉ còn 5
nước duy trì chế độ nghĩa vụ quân sự là Đan
Mạch, Estonia, Hy Lạp, Na Uy và Thổ Nhĩ Kỳ. Trong số
28 nước tham gia Liên
minh Châu Âu (European
Union), ngoài
Đan Mạch, Estonia và Hy Lạp, thì chỉ còn 3 nước nữa
vẫn duy trì chế độ nghĩa vụ quân sự, đó là
Áo, Phần Lan và Síp. Riêng Đan Mạch thì đã xây dựng
quân đội tự nguyện từ năm 2005, và chỉ trong
trường hợp thiếu người tự nguyện gia nhập quân đội
mới “rút thăm” để chọn những người buộc
phải nhập ngũ.
Có nhiều lý
lẽ biện minh cho việc xóa bỏ hoặc tạm dừng chế độ
nghĩa vụ quân sự để xây dựng quân đội tự
nguyện, chuyên nghiệp. Chẳng hạn, tinh thần chiến
đấu của quân đội tự nguyện tốt hơn hẳn loại
quân đội nghĩa vụ được phình to bởi những người bị
buộc phải cầm súng một cách bất đắc dĩ. Khả năng
chiến đấu của quân đội chuyên nghiệp cao hơn
hẳn “quân đội nghiệp dư”. Tất nhiên phải giả
thiết rằng quân đội đó chuyên tâm làm nhiệm vụ quốc
phòng, chứ không phải lợi dụng danh nghĩa “quốc
phòng” để lao vào làm kinh tế, sa đà vào kinh doanh.
Và ít nhất, cơ chế quân đội tự nguyện sẽ
không vi phạm quyền tự do tín ngưỡng và không gây ra
tình trạng bất bình đẳng trước pháp luật trong
việc thực hiện nghĩa vụ quân sự.
Trên đây ta bàn nhiều về biện pháp khắc
phục sự vi hiến của Điều
45 Hiến pháp 2013, không phải vì muốn “cầm đèn
chạy trước ô tô”, mà để chỉ ra rằng việc khắc
phục vừa khả thi, vừa có lợi, và hoàn toàn không đáng
để phải tiếp tục chấp nhận sự vi hiến đó. Đã đến
lúc phải thay đổi tư duy quốc phòng cho phù hợp với
tình hình thực tại. Một số ý kiến của nhà báo Huy
Đức bàn về vấn đề này trong bài “Động
binh, tịnh dân” rất đáng để các nhà hoạch
định chính sách quốc phòng tham khảo.
3. Bắt người dưng thờ phụng
Điều
65 Hiến pháp 2013 quy định:
“Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt
đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với
Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội;
bảo vệ Nhân dân, Đảng,
Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa;
cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện
nghĩa vụ quốc tế.”
Điều này là vi hiến, vì nó mâu thuẫn
với Điều
45 Hiến pháp 2013.
Thật vậy, đa số hạ sĩ quan và binh sĩ
của Quân đội nhân dân Việt Nam là những công dân
thực hiện nghĩa vụ quân sự. Nghĩa vụ này được
hiến định tại Điều
45 Hiến pháp 2013 trong khuôn khổ “Bảo vệ Tổ
quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công
dân”. Hơn nữa, Hiến pháp 2013 chỉ quy định tại
Điều
44 rằng “Công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ
quốc”, và đó là đối tượng hiến định duy nhất
mà “công dân có nghĩa vụ trung thành”. Vì vậy,
với tư cách con em của Nhân dân, những công dân mặc
áo lính để thực hiện nghĩa vụ quân sự chỉ có nghĩa
vụ trung thành với Tổ quốc và Nhân dân, bảo vệ Tổ
quốc và Nhân dân.
Bất cứ chế độ nào, bất cứ chính quyền
hay tổ chức chính trị nào thực sự trung thành với Tổ
quốc, thật lòng gắn bó với Nhân dân và phục vụ Nhân
dân, thì cũng được chung hưởng sự bảo vệ mà những
công dân làm nghĩa vụ quân sự dành cho Tổ quốc
và Nhân dân. Ngoài khuôn khổ đó, những công dân làm
nghĩa vụ quân sự không có nghĩa vụ phải trung
thành thêm với bất kỳ tổ chức nào nữa, và cũng không
phải bảo vệ riêng bất cứ thứ gì.
Không chỉ quá vô lý, mà còn hết sức hài
hước, khi ép buộc cả những người không hề chịu ơn
hay gắn bó với Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thậm
chí còn oán ghét đảng ấy, lại phải “trung thành…
với Đảng” và “bảo vệ… Đảng, rồi đòi
hỏi cả những người không hề yêu thích chế độ, thậm
chí còn coi nó là sai lầm lịch sử, lại phải “bảo
vệ… chế độ xã hội chủ nghĩa”.
Tổ chức mang tên “Quân đội nhân dân
Việt Nam” có thể nhận thêm trách nhiệm “trung
thành… với Đảng” và “bảo vệ… Đảng, Nhà
nước và chế độ xã hội chủ nghĩa”. Nhưng khi đó,
nó không còn là quân đội của những công dân làm
nghĩa vụ quân sự, với nhiệm vụ kinh điển là
Quốc phòng, tức là bảo vệ Tổ quốc và Nhân
dân trước nguy cơ ngoại xâm. Vì vậy, không thể
cưỡng bức những người không theo ĐCSVN phải gia nhập
quân đội ấy. Ép buộc công dân phải tham gia một tổ
chức mang mầu sắc chính trị trái với lương tâm của
bản thân là vi phạm Điều
20 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, trong đó quy định
rằng:
“Không ai có thể bị cưỡng bách gia
nhập một liên kết.”
Tức là vi phạm cả cam kết “tuân thủ…
điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thành viên” tại Điều
12 Hiến pháp 2013.
Điều
65 Hiến pháp 2013 còn quy định rằng “lực lượng
vũ trang nhân dân” phải “thực hiện nghĩa vụ quốc
tế”. Nhưng “nghĩa vụ quốc tế” là gì? Nó
được xác định theo tiêu chuẩn nào và bằng cơ chế
nào? Ai có quyền ấn định cái gọi là “nghĩa vụ quốc
tế”? Nếu ấn định sai thì phải chịu trách
nhiệm thế nào trước Nhân dân về những mất mát và hy
sinh vô nghĩa?
Cho đến nay, nhãn hiệu “nghĩa vụ quốc
tế”, hay tương tự, đã bị lạm dụng quá nhiều để
ngụy trang cho tham vọng viễn chinh của các thế lực cầm
quyền. Khi thì vì bảo vệ thế giới tự do, lúc
lại nhằm xuất khẩu cách mạng ra toàn thế giới.
Danh nghĩa luôn mĩ miều, mà kết cục chẳng mấy khi tốt
đẹp. Ra quân luôn “trống dong cờ mở”, mà thu
quân chẳng mấy lúc vinh quang. Năm xưa Liên Xô đưa quân
vào Afghanistan, thì bị Mỹ và đồng minh kịch liệt phản
đối. Nay Mỹ và đồng minh lại lao vào Afghanistan để
thế chỗ sa lầy. Gọi là giúp đỡ, mà thu được là sự
oán ghét của người dân sở tại. Nhân danh cứu người,
mà lại gây ra gấp bội lần chết chóc. Lấy cớ phá bỏ
vũ khí hủy diệt, mà chỉ dựa vào bằng chứng ngụy tạo
của thế lực thèm khát chiến tranh. Lúc triệt hạ bọn
độc tài, hay lũ diệt chủng, thì nhân danh “nghĩa vụ
quốc tế” đã đành, nhưng khi nâng đỡ chúng lên
nắm chính quyền cũng nhân danh “nghĩa vụ quốc tế”
nốt. “Nghĩa vụ” kiểu gì mà tráo trở như vậy?
Điều quan trọng là “nghĩa vụ quốc
tế” của ai? Lý tưởng của ai thì người ấy cứ
việc tự tay cầm súng mà triển khai. Tại sao lại bắt
những người dân vô can phải bỏ nước ra đi, hy sinh
xương máu ở xứ xa xăm, cho thứ “nghĩa vụ quốc tế”
được ấn định bởi cảm tính của giới cầm quyền?
Tóm lại, việc quy định lực lượng
vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với ĐCSVN,
có nhiệm vụ bảo vệ ĐCSVN, chế độ xã hội chủ nghĩa
và thực hiện nghĩa vụ quốc tế (tại Điều
65 Hiến pháp 2013) là vi phạm quy định “công dân
phải thực hiện nghĩa vụ quân sự” để “bảo vệ Tổ
quốc” (tại Điều
45 Hiến pháp 2013).
Phải khắc phục sự vi hiến của Điều
65 Hiến pháp 2013 như thế nào? Cách đơn giản nhất
là xóa bỏ nội dung “kỳ dị” ấy ra khỏi Điều
65. Ngược lại, nếu vẫn muốn bám giữ nó, thì phải
sửa lại Điều
45 theo hướng xóa bỏ chế độ nghĩa vụ quân sự
và xây dựng một quân đội chỉ tuyển chọn những
người tự nguyện. Khi đó, thế lực điều khiển
quân đội có thể đề ra những yêu cầu và nhiệm vụ
theo ý họ, còn công dân thì tự xác định xem bản thân
có chấp nhận gia nhập quân đội ấy hay không. Tất
nhiên, để có thể đòi hỏi quân đội phải trung thành
với đảng và bảo vệ đảng, thì ĐCSVN còn phải chi
tiền riêng để nuôi những người lính tự nguyện,
không thể phó mặc trách nhiệm chu cấp quân đội cho
người dân đóng thuế.
4. Tước đoạt quyền sở hữu
Điều
53 Hiến pháp 2013 quy định:
“Đất đai… là tài
sản công thuộc sở hữu toàn dân
do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất
quản lý.”
Điều này là vi hiến. Để
chứng minh kết luận này, ta sẽ quay về cái thời mà sở
hữu đất đai còn chưa rơi vào tình trạng “hỗn
loạn pháp lý”, rồi sử dụng phương pháp quy nạp
để đến với thực tại.
Hiến
pháp 1946 – tức là hiến pháp đầu tiên của chế độ
này – chỉ có một điều duy nhất đề cập đến quyền
sở hữu, đó là:
“Điều thứ 12 Quyền
tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm.”
Hiển nhiên, đất đai là một dạng
tài sản, do đó quyền tư hữu đất đai của
công dân cũng được Hiến pháp 1946 bảo đảm.
Đó là điều đã trở thành hiển nhiên và cũng là lời
cam kết long trọng của chế độ này khi mới ra đời.
Hiến
pháp 1959 quy định:
“Điều
14 Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo
hộ quyền sở hữu về ruộng đất và các tư
liệu sản xuất khác của nông dân…”
“Điều
18 Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu
của công dân về của cải thu nhập hợp pháp, của cải
để dành, nhà ở và các thứ vật dụng riêng
khác.”
“Điều
19 Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo
hộ quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân.”
Như vậy, Hiến pháp 1959 tiếp tục thừa
nhận “quyền sở hữu về ruộng đất… của nông
dân”, và “quyền sở hữu của công dân về của
cải thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở”.
Rõ ràng, đất đai được người dân mua bằng thu
nhập hợp pháp là “của cải thu nhập hợp pháp”,
vừa để sử dụng ngay, vừa là của cải để dành,
và khái niệm “nhà ở” tất nhiên gắn liền với
đất ở. Hơn thế nữa, Hiến pháp 1959 cũng thừa
nhận cả “quyền thừa kế tài sản tư hữu của công
dân”. Do đó, đất đai mà người dân đã khai
khẩn trước khi Hiến
pháp 1959 (Điều 12) quy định “đất hoang… thuộc
sở hữu toàn dân”, hoặc đã mua hay thừa kế
trước khi Hiến
pháp 1959 hết hiệu lực vào ngày 19/12/1980, chắc chắn
thuộc “quyền sở hữu của công dân” được
“Nhà nước bảo hộ”. Hiến pháp thời đó không
cho bất cứ thế lực nào, kể cả ĐCSVN, được phép xâm
phạm quyền sở hữu tư nhân về đất đai. Không
tổ chức và cá nhân nào, kể cả tập thể Quốc hội và
cá nhân các đại biểu Quốc hội, được phép phủ nhận
quyền sở hữu tư nhân về đất đai.
Khi Quốc
hội khóa VI (1976-1981) thông
qua Hiến pháp 1980 vào ngày 18/12/1980 thì Hiến
pháp 1959 vẫn còn nguyên hiệu lực. Cho nên, việc
Quốc hội khóa VI biểu quyết xóa bỏ quyền sở hữu hợp
pháp của tư nhân về đất đai và ấn định rằng toàn
bộ “đất đai… thuộc sở hữu toàn dân” (Điều
19 Hiến pháp 1980) là vi phạm thô bạo Hiến pháp đang
có hiệu lực.
Trong một chế độ Cộng hòa, nơi mà “tất
cả quyền lực… đều thuộc vào Nhân dân” (Điều
4 Hiến pháp 1959), thì việc xóa bỏ quyền sở
hữu của người dân về đất đai là sự vi phạm Hiến
pháp nghiêm trọng nhất. Hành động vi hiến đó mặc
nhiên phủ định tư cách hợp hiến của Quốc hội khóa
VI (đại diện cho quyền lợi, ý chí và nguyện
vọng của Nhân dân), và vì vậy cũng phủ định
luôn cả quyền “Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp”
của tổ chức ấy, vốn được hiến định tại
Điều
50 Hiến pháp 1959. Nếu chế độ này thực sự dân
chủ, thì các đại biểu Quốc hội khóa VI đã “có
thể bị cử tri bãi miễn trước khi hết nhiệm kỳ”
vì “tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của
nhân dân”, như đã được hiến định tại Điều
5 Hiến pháp 1959.
Cần nhấn mạnh thêm
rằng, việc Quốc hội khóa VI quyết định quốc hữu
hóa toàn bộ đất đai bằng mĩ từ “sở hữu toàn dân”
cũng vi phạm cả Điều
20 Hiến pháp 1959, quy định rằng:
“Chỉ khi nào cần thiết vì lợi ích
chung, Nhà nước mới trưng mua, hoặc trưng dụng, trưng
thu có bồi thường thích đáng các tư
liệu sản xuất ở thành thị và nông thôn, trong phạm vi
và điều kiện do pháp luật quy định.”
Bởi vì Quốc hội khóa VI chỉ hiến định
việc tước bỏ quyền sở hữu tư nhân về đất đai,
bao gồm cả nơi sản xuất và kinh doanh – là “tư
liệu sản xuất ở thành thị và nông thôn” – mà
không kèm theo một giải pháp bồi thường
nào cả. Trên thực tế, kể từ đó đến nay, Nhà
nước không hề tiến hành bồi thường và cũng
chẳng có ý định bồi thường cho những người bị
mất quyền sở hữu đất đai.
Quy định sai trái rằng “đất đai…
thuộc sở hữu toàn dân” không chỉ vi hiến theo Hiến
pháp 1959, mà còn vi hiến đối với cả Hiến pháp 1980.
Bởi vì đất đai thuộc sở hữu tư nhân nằm trong
diện được đề cập tại Điều
27 Hiến pháp 1980:
“Nhà nước bảo hộ quyền sở
hữu của công dân về thu nhập hợp pháp, của cải để
dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, những công cụ sản
xuất dùng trong những trường hợp được phép
lao động riêng lẻ.”
“Pháp luật bảo hộ quyền thừa
kế tài sản của công dân.”
Chính điều hiến định này tiếp tục bảo
vệ quyền sở hữu tư nhân về đất đai kể cả
khi Hiến pháp 1980 có hiệu lực.
Không chỉ dừng lại ở giai đoạn đó.
Chừng nào Hiến pháp kế tiếp còn thừa nhận “quyền
sở hữu của công dân về thu nhập hợp pháp, của cải
để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, công cụ sản
xuất…” và thừa nhận “quyền thừa kế tài sản của
công dân”, thì chừng ấy Hiến pháp vẫn thừa nhận
quyền sở hữu tư nhân về đất đai, và quy định “đất
đai thuộc sở hữu toàn dân” vẫn là vi hiến.
Trên thực tế, hai nội dung vừa kể đã được duy trì
tại Điều
58 Hiến pháp 1992:
“Công dân có quyền sở hữu về thu
nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu
sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản
khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế
khác…”
“Nhà nước bảo hộ quyền sở
hữu hợp pháp và quyền thừa kế của
công dân.”
Và chúng cũng được tiếp tục duy trì tại
Điều
32 Hiến pháp 2013:
“1. Mọi người có quyền sở
hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở,
tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần
vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế
khác.”
“2. Quyền sở hữu tư nhân
và quyền thừa kế được pháp luật
bảo hộ.”
Hơn thế nữa, việc “quốc hữu hóa”
đất đai vốn thuộc sở hữu tư nhân thành “sở hữu
toàn dân” bị ngăn cấm bởi Điều
23 Hiến pháp 1992:
“Tài sản hợp pháp của cá nhân,
tổ chức không bị quốc hữu hoá.”
Và điều đó cũng tiếp tục bị ngăn
cấm bởi Điều
51 Hiến pháp 2013:
“Tài sản hợp pháp của cá nhân,
tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp
luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa.”
Tóm lại, trong suốt năm đời Hiến
pháp của chế độ này, nếu không phải có được
do tham nhũng hay cướp bóc, thì đất đai của tư nhân
luôn thuộc phạm trù “thu nhập hợp pháp, của cải
để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất”
hoặc là tài sản “thừa kế”, phải “được
pháp luật bảo hộ”. Ít nhất thì đất đai mà
người dân đã từng sở hữu hợp pháp trước khi Hiến
pháp 1980 có hiệu lực luôn là “tài sản hợp pháp của
cá nhân”. Do đó, Hiến pháp luôn thừa nhận
quyền sở hữu tư nhân đối với dạng đất đai ấy.
Và đương nhiên, quy định “đất đai… là tài sản
công thuộc sở hữu toàn dân”, như tại Điều
53 Hiến pháp 2013, luôn là vi hiến. Nó vi hiến
ngay từ lúc “thoát thai”, khi Hiến
pháp 1959 còn có hiệu lực, vì vi phạm Điều
14, Điều
18, Điều
19 và Điều
20. Nó vi hiến cả trong cái “nôi chào đời”
là Hiến
pháp 1980, vì vi phạm Điều
27. Nó tiếp tục vi hiến trong khuôn khổ Hiến
pháp 1992, vì vi phạm Điều
23 và Điều
58. Giờ đây, nó vẫn vi hiến, vì vi phạm Điều
32 và Điều
51 của Hiến
pháp 2013.
Hơn thế nữa, Điều
53 Hiến pháp 2013 còn vi phạm cả Điều
17 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, quy định rằng:
“1. Mọi người đều có quyền sở hữu
tài sản cá nhân cũng như tài sản tập thể.
2. Không được tước đoạt tài sản của
bất kỳ ai một cách tùy tiện.”
Tức là vi phạm cam kết “tuân
thủ… điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên” tại Điều
12 của Hiến pháp 2013.
Không còn nghi ngờ gì nữa, xét về mọi
phương diện, Điều
53 Hiến pháp 2013 là vi hiến! Khắc
phục thế nào đây? “Cái gì của Xê-da hãy trả lại
cho Xê-da”, đừng tham lam, tiếc nuối… tài sản của
người khác. Hãy xóa bỏ điều khoản áp đặt mang tính
chiếm đoạt, ngụy danh “đất đai… là tài sản công
thuộc sở hữu toàn dân”. “Nhất cử lưỡng
tiện”, vừa khắc phục một điều khoản vi hiến,
vừa giúp chế độ thoát khỏi một sa lầy, như đã trao
đổi trong bài “Hai
tử huyệt của chế độ”.
5. Chiếm quyền lực Nhân dân
Điều
2 Hiến pháp 2013 long trọng cam kết:
“1. Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân
dân.”
“2. Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về Nhân dân…”
5.1.
Nếu “tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về Nhân dân” thì tối thiểu quyền
lựa chọn và xác định “lực lượng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội” cũng phải “thuộc về
Nhân dân”. Đây là quyền cơ bản nhất, cốt lõi
nhất trong số các “quyền lực nhà nước”. Chỉ
khi Nhân dân thực thi quyền cơ bản ấy thì Nhà nước
mới có thể coi là “của Nhân dân, do Nhân dân”,
mới thể hiện được rằng Nước này “do Nhân dân
làm chủ”. Song trên thực tế, chưa bao giờ Nhân
dân bầu ĐCSVN làm “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và
xã hội”. Vậy thì tại sao các nhà lập hiến
lại ghi vào Điều
4 Hiến pháp 2013 rằng “Đảng Cộng sản
Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã
hội”?
Không thể ngụy biện rằng Nhân dân đã ủy
nhiệm cho Quốc hội thực hiện cái quyền xác định “lực
lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Vì sao?
Thứ nhất, các đại biểu Quốc hội
chỉ được bầu ra từ danh sách do bộ máy cầm quyền
lựa chọn, dù cử tri bỏ phiếu cho ai thì trúng cử cũng
là người của nhà cầm quyền, nên Quốc hội chỉ đại
diện cho thế lực cầm quyền, không thể đại diện cho
ý chí, nguyện vọng và trí tuệ của toàn thể Nhân dân.
Thứ hai, trong số các nhiệm vụ và quyền
hạn của Quốc hội được hiến định tại Điều
84 Hiến pháp 1992 (tức là Hiến pháp có hiệu lực tại
thời điểm mà Quốc hội thông qua Hiến pháp 2013) và tại
Điều
70 Hiến pháp 2013, không có bất cứ điều khoản
nào cho phép Quốc hội bầu ra một thế lực chung chung
đóng vai trò “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã
hội”. Cụ thể, theo Điều
70 Hiến pháp 2013 thì Quốc hội chỉ có quyền hạn
bầu ra mấy chức danh như sau:
“Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước,
Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên
Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân
tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng
Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng
bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước, người
đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập.”
Và nhiệm kỳ của các chức danh đó đều
được hiến định là “theo nhiệm kỳ của Quốc
hội”. Quốc hội chỉ được trao quyền hạn
trong một nhiệm
kỳ năm năm thì không thể được phép bầu
ra những chức danh hay quyền lực vô thời hạn như tại
Điều
4 Hiến pháp 2013!
Thứ ba, Quốc hội được trao quyền “Làm
Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp”, song đó là
Hiến pháp được hiểu theo nghĩa lành mạnh thông thường.
Không thể lạm dụng quyền lập hiến để tùy tiện ghi
vào Hiến pháp những điều “không giống ai”.
Trong các hiến pháp thông thường trên thế giới,
không thể có chuyện hiến định quyền lãnh đạo vĩnh
viễn của một chính đảng duy nhất đối với nhà nước
và xã hội. Nhân danh “hoàn cảnh đặc thù”, Quốc
hội có thể đưa vào Hiến pháp một số nội dung “khác
thường”, nhưng điều đó chỉ được coi là “hợp với
lòng Dân” nếu được đa số Nhân dân chấp thuận,
thông qua phúc quyết toàn dân, trong đó phải
biểu quyết riêng rẽ cho từng nội dung cụ thể,
không thể “xập xí xập ngầu biểu quyết cả gói”.
Các đại biểu Quốc hội và cả giới cầm
quyền đều biết rõ, rằng họ không thể áp đặt
những đứa con do chính họ đẻ ra sẽ phải làm gì trong
10 năm, 20 năm hay 50 năm tới. Vậy mà họ lại
ngộ nhận quyền lực, ngang nhiên áp đặt vĩnh viễn
muôn dân, những người ít nhất là bình đẳng và hoàn
toàn không vướng víu gì với họ.
Giả sử Nhân dân trực tiếp bầu “lực
lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, thì họ
cũng thừa thông minh để hiểu rằng: Chỉ có thể
bầu cho từng nhiệm kỳ. Hiển nhiên là phải dựa
vào thể hiện của từng cá nhân và từng tổ chức trong
nhiệm kỳ trước để quyết định xem có nên tín nhiệm
bầu thêm một nhiệm kỳ nữa hay không. Cũng phải xét
xem đương sự có còn đủ điều kiện về sức khỏe và
trí tuệ để tái cử hay không. Chẳng ai muốn bầu một
vị công thần đã chớm bị bệnh Alzheimer tiếp tục tham
gia “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
Hơn nữa, Nhân dân của thế hệ hôm
nay không có quyền quyết định thay cho cả Nhân dân của
các thế hệ mai sau. Nếu quan niệm rằng cứ
sinh ra trước là có quyền áp đặt hậu thế, thì thế
hệ cầm quyền cách nay nửa thế kỷ phải tiếp tục duy
trì chế độ quân chủ, và thế hệ cầm quyền hôm nay
phải tiếp tục theo đuổi “kinh tế có kế hoạch”,
chứ không thể triển khai cái gọi là “kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Thế hệ
này đã ăn sang cả phần tài nguyên của các thế hệ mai
sau, để lại cho họ một môi trường bị phá hủy nặng
nề cùng với những món nợ khổng lồ. Như vậy đã là
quá tệ. Không thể ép các thế hệ mai sau phải chịu
đựng thêm những sai lầm hay tệ nạn mà thế hệ mình
đang cam chịu.
Trong mọi trường hợp, Nhân dân của
thế hệ hôm nay và Quốc hội đương nhiệm đều không
được phép hiến định quyền VĨNH VIỄN “lãnh
đạo Nhà nước và xã hội” của bất cứ “lực lượng”
nào.
Tóm lại, Điều
4 Hiến pháp 2013 là vi hiến, vì nó vi phạm
Điều
2 Hiến pháp 2013. Khắc phục thế nào đây?
Nếu vẫn muốn bám giữ Điều
4 thì phải sửa lại Điều
2, xóa các nội dung “Nhà nước của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân”, “do Nhân dân làm chủ”
và “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân
dân” ra khỏi Hiến pháp. Vì các nội dung bị xóa là
những nét đặc trưng của chế độ “Cộng hòa”,
nên cũng phải đổi cả tên nước, chẳng hạn thay từ
“Cộng hòa” bằng “Đảng quốc”, tương
tự như mẫu từ “Vương quốc”.
Ngược lại, nếu vẫn giữ nguyên Điều
2 cùng với thể chế “Cộng hòa”, thì chỉ
còn cách xóa bỏ nội dung Điều
4. Làm như vậy sẽ không chỉ khắc phục được một
điều vi hiến, mà còn giải thoát cả Hiến pháp
Việt Nam và ĐCSVN ra khỏi trạng thái tệ hại, như đã
trao đổi trong bài “Hai
tử huyệt của chế độ” và bài “Uẩn
khúc trong Điều 4 Hiến pháp”.
5.2.
Khoản 1 Điều
9 Hiến pháp 2013 viết:
“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ
chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ
chức chính trị, các tổ chức
chính trị – xã hội, tổ chức xã hội và các
cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp,
tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là
cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân;
đại diện, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân…”
Nhiều thông tin quan trọng được cô đọng
trong đoạn trích này.
Trước hết, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam được xác định là “tổ
chức liên minh chính trị”. Thành phần của nó là
- “tổ
chức chính trị“,
- “các
tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội” và
- “các
cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp,
tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài.”
Như vậy, các tổ chức thành viên được
phân thành 3 tầng. Tầng cao nhất là “tổ chức chính
trị”. Tầng giữa là “các tổ chức
chính trị – xã hội”. Và tầng thấp nhất là “các
tổ chức xã hội” (thấp vì không được gán cho
chức năng “chính trị”). Nhìn vào 3 chữ “các“,
có thể nhận ra rằng các tác giả rất chú trọng việc
nhấn mạnh trạng thái số ít, số nhiều. Cho nên,
khi không viết chữ “các“ trước “tổ
chức chính trị“, thì có nghĩa là chỉ
thừa nhận duy nhất một “tổ chức chính trị”.
Có thể đoán rằng “tổ chức chính trị” duy
nhất ấy chính là ĐCSVN. Tiếc rằng, các tác giả của
Hiến pháp 2013 đã phạm phải sai lầm, quên hiến định
“ĐCSVN là tổ chức chính trị”, trong khi hiến
định cụ thể 5 tổ chức được coi là “tổ chức
chính trị – xã hội”.
Nội dung kể trên đã xuất hiện trong Điều
1 Luật
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam số 14/1999/QH10 (do Quốc
hội khóa X thông qua năm 1999), nay được Quốc hội khóa
XIII hiến định hóa.
Thành phần của tầng “các
tổ chức chính trị – xã hội” được hiến định
tại Khoản 2 Điều
9 Hiến pháp 2013:
“Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân
Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội
liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt
Nam là các tổ chức chính trị – xã hội…”
“… là các tổ chức chính trị –
xã hội“ có nghĩa đó là tất cả, ngoài ra
không còn “tổ chức chính trị – xã hội” nào
nữa. Công nhân, “nông dân”, “thanh niên”, “phụ
nữ” và “cựu chiến binh” đều được coi là đủ
năng lực và đủ tin cậy để tham gia “chính trị”.
Vậy mà, giữa thời giới cầm quyền tung hô cái gọi là
“kinh tế tri thức” hay “kinh tế trí thức”,
họ vẫn không chịu hay không dám gán cho Liên
hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam
cái nhãn “tổ chức chính trị – xã hội”.
Bản thân các vị cầm quyền bây giờ mang đầy học
vị và học hàm, sao họ lại e ngại và nghi kị trí thức
đến như vậy?
Vì “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ
sở chính trị của chính quyền nhân dân“,
nên các tổ chức không thuộc Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam không có quyền tham gia vào những việc quan trọng
thuộc đời sống chính trị của chính quyền này.
Điều đó không có nghĩa là mọi thành
viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đều được
tham gia… (Nếu không phải như vậy thì phân biệt giữa
“tổ chức chính trị – xã hội” và “tổ
chức xã hội” để làm gì?)
Trong Điều
lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam do Đại hội II thông
qua vào năm 1983, Điều 1 được viết như sau:
“Thành viên của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam bao gồm các tổ chức chính trị – xã
hội và những công dân của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam thiết tha với sự nghiệp
đoàn kết đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.”
Vậy là ban đầu mọi tổ chức thành viên
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đều được thừa nhận
là “tổ chức chính trị – xã hội”. Điều đó
cũng phù hợp với Điều
9 Hiến pháp 1992, quy định rằng:
“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân…”
Nghĩa là mọi thành viên của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam đều là “cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân”. Song Hiến pháp 2013 đã rút lại sự
“hào phóng” ấy, chỉ trao quyền làm “cơ sở
chính trị…” cho “tổ chức mẹ” (tức Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam), và “quyền của mẹ”
không có nghĩa là “quyền của các con” (tức các
tổ chức thành viên).
Việc phân chia các tổ chức thành viên
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành 3 đẳng cấp, với
ĐCSVN là tổ chức duy nhất thuộc đẳng cấp “tổ chức
chính trị” và 5 tổ chức được xác định là “các
tổ chức chính trị – xã hội”, là bước đi có tính
toán trên con đường… ngược chiều dân chủ.
Điều 1 Điều
lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 1983 (được
trích dẫn ở trên) cho thấy: Chỉ những ai tán thành “xây
dựng chủ nghĩa xã hội” và chịu thừa nhận Tổ
quốc Việt Nam là “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”
mới có thể là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam. Từ đó đến nay, mặc dù Điều
lệ đã được chỉnh sửa ít nhiều để thích ứng
với tình hình, nhưng bản chất chính trị của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam vẫn không thay đổi, trong khi lực
lượng tán thành “xây dựng chủ nghĩa xã hội”
ở Việt Nam ngày càng ít đi và chỉ là thiểu số trong
Nhân dân Việt Nam. Do đó, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam không đại diện cho toàn thể Nhân dân Việt Nam.
Vậy mà Khoản 1 Điều
9 Hiến pháp 2013 lại hiến định rằng “Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam… đại diện…
quyền… của Nhân dân“.
Không hề được toàn thể Nhân dân
bầu ra, thông qua bầu cử phổ thông, mà lại đứng ra
“đại diện quyền của Nhân dân” và “là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân”, thì đó là bằng
chứng cho việc coi thường Nhân dân, vi phạm nghiêm trọng
nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
Nhân dân”. Nghĩa là Điều
9 Hiến pháp 2013 vi phạm Điều
2 Hiến pháp 2013.
Điều
4 Hiến pháp 1980 quy định
“Đảng cộng sản Việt Nam… là lực
lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước,
lãnh đạo xã hội.”
Hiến
pháp 1992 và Hiến
pháp 2013 bỏ chữ “duy nhất”, chỉ còn giữ
lại quy định
“Đảng cộng sản Việt Nam… là lực
lượng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội.”
Tuy nhiên, thay đổi đó không có nghĩa là
Điều
4 Hiến pháp 2013 tiến bộ hơn Điều
4 Hiến pháp 1980. Vì Điều
9 Hiến pháp 2013 chỉ công nhận duy nhất một “tổ
chức chính trị” trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
“là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân”,
nên dù bỏ đi hai chữ “duy nhất” thì cũng chỉ
còn đúng một “lực lượng lãnh đạo Nhà
nước, lãnh đạo xã hội” mà thôi. Hơn nữa, hiến
định duy nhất một “tổ chức chính trị” có nghĩa là
chỉ chấp nhận sự tồn tại của một đảng chính trị
duy nhất, đó chính là ĐCSVN. Nghĩa là Điều
9 Hiến pháp 2013 vi phạm cả quyền tự do
lập hội, được hiến định tại Điều
25 Hiến pháp 2013. (Xem bài “Hiến
pháp 2013 – Sửa nhầm hay đổi thiệt?” để thấy
rằng Hiến pháp 2013 không cho phép hạn chế quyền tự
do lập hội.)
*
* *
Trên đây chỉ là mấy ví dụ, chứ không
phải là tất cả các điều khoản mâu thuẫn trong Hiến
pháp 2013. Vẫn còn những hạt sạn khác, chẳng hạn Điều
10 Hiến pháp 2013, viết rằng:
“Công đoàn Việt Nam là tổ chức
chính trị – xã hội của giai cấp công nhân và của
người lao động được thành lập trên cơ sở
tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm
lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của
người lao động…”
Đằng sau điều hiến định này ẩn chứa
một nội dung sâu xa: Vì được hiến định là “tổ
chức chính trị – xã hội…”, chứ không phải là
“một tổ chức chính trị – xã hội…”
hay “một trong các tổ chức chính trị –
xã hội…”, nên “Công đoàn Việt Nam là tổ
chức chính trị – xã hội” duy nhất
“của giai cấp công nhân và của người lao động… đại
diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp, chính đáng của người lao động…”.
Tức là người lao động (trong đó có công
nhân) không được phép thành lập thêm những
tổ chức công đoàn khác để đại diện cho mình và bảo
vệ mình, mặc dù trên thực tế Công đoàn
Việt Nam không làm nổi nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của mọi người lao động.
Như vậy, Điều
10 Hiến pháp 2013 vi phạm quyền tự do lập
hội, được hiến định tại Điều
25 Hiến pháp 2013.
Một số điều khoản vi hiến của Hiến
pháp 2013 được truyền nhiễm từ mấy Hiến pháp trước.
Lẽ ra, thời gian trôi qua thì nhận thức cũng phải khá
hơn, đủ để nhận ra và khắc phục phần nào những sai
lầm ấu trĩ đã phạm phải trong quá khứ. Nhưng tiếc
thay, bên cạnh những di sản vi hiến vẫn được “bảo
toàn”, lại xuất hiện thêm những sáng tạo vi hiến
mới…
Điều
74 Hiến pháp 2013 quy định Uỷ ban thường vụ Quốc
hội có nhiệm vụ “giải thích Hiến pháp…”.
Bao giờ thì Uỷ ban thường vụ Quốc hội giải
thích, và sẽ giải thích thế nào về những mâu thuẫn
mang tính vi hiến trong Hiến pháp 2013?
Điều
119 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi văn bản pháp
luật khác phải phù hợp với Hiến pháp.” Làm
sao có thể đòi hỏi “Mọi văn bản pháp luật khác phải
phù hợp với Hiến pháp”, khi chính bản thân Hiến pháp
cũng không “phù hợp với Hiến pháp”? Biết tuân theo
điều nào của Hiến pháp khi chúng mâu thuẫn với nhau?
Đối với Hiến pháp 2013, khi thông qua nó
thì Quốc hội đã tiên phong thực hiện “hành vi vi
phạm Hiến pháp” đầu tiên. Trong các “hành vi vi
phạm Hiến pháp”, thì ban hành Hiến pháp vi hiến
là “hành vi vi phạm Hiến pháp” nghiêm trọng và đáng
chê trách nhất. Nghiêm trọng bởi nó gây tác hại
cho cuộc sống của hơn 90 triệu người dân và cả tương
lai Dân tộc. Nghiêm trọng bởi nó đẩy các nhà lập pháp
và hành pháp rơi vào hoàn cảnh buộc phải vi hiến,
vì nếu tuân theo điều này thì lại vi phạm điều kia.
Nghiêm trọng bởi “hành vi vi phạm Hiến pháp”
này mang tính “đầu têu”, vì Quốc hội nêu gương
xấu cho bộ máy chính quyền ở tất cả các cấp trong
việc vi phạm Hiến pháp và pháp luật. Đáng chê trách
bởi lỗi này dễ tránh nhất, vì lập hiến ở vị thế
chủ động, không bị lệ thuộc vào các văn bản pháp
quy khác.
Điều
119 Hiến pháp 2013 cũng quy định: “Mọi hành vi vi
phạm Hiến pháp đều bị xử lý.” Vậy Quốc
hội sẽ “xử lý” cái “hành vi vi phạm Hiến pháp”
ấy của chính mình như thế nào?
Bất luận Quốc hội sẽ giải thích và tự
xử lý thế nào, thì chúng ta cũng phải băn khoăn với
câu hỏi: Một văn bản chứa đựng nhiều điều
khoản mâu thuẫn với nhau như thế, thì có xứng đáng là
Hiến pháp hay không?
Ngày 4 tháng 9 năm 2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét