Hôm nay,
tôi xin “hầu” các bạn một mối tình nẩy nở từ những bài toán tích phân, vi phân.
Lớp Toán
K13 có anh Bùi Năng Cận, quê Hà Tĩnh, thư sinh đẹp trai, học giỏi; tính nết
hiền lành. Tên là Năng Cận có nghĩa là “hay gần gũi” nhưng cái tính hay gần gũi
này hình như anh dành trọn cho Toán học thì phải. Chẳng thế mà khi bắt đầu học
cấp III anh đã được vào học lớp chuyên toán đầu tiên của Trường Đại học Tổng
hợp Hà Nội và khi vào học Lớp toán K13 thì anh cũng là một “quái kiệt” về sức
học và thành tích học tập.
Lớp Toán
K13 còn có chị Trịnh Kim Thanh, quê Hà Nội, xinh gái và cũng là một học sinh
giỏi của Trường phổ thông cấp III Việt Nam - Ba Lan (Hà Nội). Khi học xong phổ
thông, chị Thanh cũng được chọn đi học nước ngoài nhưng năm đó do có một số
biến động ở Đông Âu nên chị Thanh phải ở lại và vào học Khoa Toán, Trường Đại
học Tổng hợp Hà Nội, cùng Lớp với anh Cận. Tên là Kim Thanh có nghĩa là “giọng
vàng”. Mà đúng là chị có giọng ca thánh thót thật. Mỗi khi ở nơi sơ tán chị hát
bài “Bài ca Hà Nội” thì ai trong lớp Toán K13 cũng bồi hồi, xao xuyến như mình
đang đi trên đường phố Thủ đô vậy “Ta đi trên đường Hà Nội rực rỡ chiến công,
đường thênh thang Ba đình lịch sử, đường tấp nập Hoàn Kiếm Đồng xuân, nghe náo
nức trong lòng…”
Năm thứ
nhất, Lớp Toán K13 học tại Ba Trang, Đại Từ dù thiếu thốn, khó khăn, gian khổ
nhưng kết quả học tập nhìn chung đều rất tốt. Hồi ấy việc thi cử, kiểm tra học
kỳ và cuối năm học đều rất nghiêm chỉnh (không có khái niệm phao phiếc như bây
giờ). Tuy nhiên các anh cán bộ, bộ đội được cử đi học đại học ở Lớp Toán K13
thì sức học hơi bị yếu. Thế là, với tinh thần giúp đỡ các anh, trong học tập đã
hình thành các cặp đôi học chung Hiền - Nhụy, Hãn - Cương (Nguyễn), Bình - Hùng
(trọc),….
Chị Thanh,
sức học không phải là kém, đạt mức trung bình khá ở năm thứ nhất. Bắt đầu vào
học kỳ II năm thứ nhất chị đã “để ý” đến anh Cận hay nói một cách văn hoa thì:
anh Cận đã lọt vào “mắt xanh” của chị. Nhưng để tiếp cận với anh Cận thì khó
quá vì anh Cận chỉ mải mê với “nàng toán”!!!
Năm thứ
hai, Trường Tổng hợp rời về Đông Anh - Hà Nội, Lớp Toán K13 đóng tại thôn Tiên
Hội, sinh viên ở trong nhà dân, phong trào giúp nhau trong học tập vẫn duy trì,
phát triển. Đến lúc này, anh Cận gần như là người học giỏi vào hạng super của
Lớp nhưng chưa phải “kèm cặp” ai. Chị Thanh lại cùng Tổ với anh Cận. Thế là chị
Thanh nẩy ra “sáng ý”: Chị cố tình thi hỏng vài môn của học kỳ I năm thứ hai
(mặc dù sức học của chị không tệ). Đương nhiên trong “tình thế” ấy, Lớp phó phụ
trách học tập Nguyễn Ngọc Cương đã phân công anh Cận “kèm cặp” chị Thanh, giúp
chị Thanh học ôn để thi lại. Vậy là bước đầu chị Thanh đã đạt được “kế sách”
của mình.
Liên tục
trong hai năm thứ hai và thứ ba cho đến khi phân ban, anh Cận ngoài việc gần
gũi với "nàng toán" hơn trước mong có được nhiều lưng vốn hơn để được “gần gũi”
chị Thanh dài dài.
Cả lớp
không ai hiểu (riêng Thanh Cận thì hiểu) anh Cận đã “kèm cặp” chị Thanh như thế
nào?
Riêng
tôi thì tôi đồ rằng: có lẽ anh Cận “kèm cặp” chị Thanh học thì ít mà ngược lại
chị Thanh “kèm cặp” anh Cận nhiều hơn về các phương pháp…iu như thế nào cho
hiệu quả !
Tại sao
tôi lại đồ chừng như vậy: Thứ nhất:
Bằng chứng là chị Thanh từ khi học chung với anh Cận thì không phải thi lại môn
nào và nhiều môn còn được điểm cao (có nghĩa là vài môn phải thi lại ở học kỳ I
năm thứ hai là do chị Thanh cố tình thi hỏng để tạo tình huống được gần gũi anh
Cận, chứ tuyệt nhiên không phải chị Thanh học yếu); trong khi các anh Hiền, anh
Hãn, anh Bình và nhiều người khác “đổ mồ hôi, sôi nước mắt” miệt mài đèn sách,
sáng ra muội đèn đen kịt lỗ mũi và cũng được sự giúp đỡ của các “thần toán” mà
vẫn thi lên, thi xuống. Thứ hai: có
một dạo ở Tiên hội (khi ấy anh Cận đang kèm cặp chị Thanh) mấy người bạn thân
với anh Cận cứ thấy anh Cận loay hoay giải toán mà không ai biết là bài toán
gì. Có bạn cùng ở chung nhà với anh Cận cố tình xem trộm mấy tờ giấy nháp thì
được biết nội dung của Bài toán là: “tìm tích phân của hàm CT (x) từ HT đến
HN”. Anh Cận lục hết trong quyển sách Đê mi nô vich mà chẳng tìm ra bài toán
nào có dạng ấy cả. Hóa ra, bài toán ấy là do chị Thanh đưa ra cho anh Cận nhờ
giải. Mãi anh Cận vẫn chưa tìm ra đáp số bài toán, bấy giờ chị Thanh lại “kèm
cặp” cho anh Cận để giải bài toán này. Từ khi về Thượng Đình học được mấy tháng
mọi người thấy anh Cận lúc nào cũng cười tươi (chị Thanh còn tươi hơn). Sau này
mọi người mới vỡ lẽ nội dung của bài toán là “tìm tích phân của hàm Cận Thanh
với miền biến thiên từ Hà Tĩnh đến Hà Nội” và đáp số là TY (tình…iu).
Sau khi
ra trường anh Cận và chị Thanh tiếp tục cùng nhau giải “bài toán cơ bản” còn
khó hơn cả “Bổ đề cơ bản” là: “tìm Lim của hàm số TY (x) khi x tiến đến vô
cùng” và đã tìm được nghiệm duy nhất là PT (phu thê) với thời gian hai người bỏ
ra đâu mất khoảng 2-3 năm gì đó.
Với hai
công trình “tầm cỡ” như trên, anh Cận chị Thanh được nhận giải thưởng còn hơn
cả giải Fielts đó là hai cậu con trai giỏi như anh Cận và còn hơn anh Cận về
khoản “iu…sớm”.
Bây giờ
anh Cận chị Thanh là một cặp vợ chồng rất chi là hạnh phúc, hai cậu con trai của
anh chị đã sớm có gia thất; anh chị đã thành ông nội, bà nội. Mấy cháu nội của anh chị thông minh, lém lỉnh
như thằng “cu tý” trong chuyện tiếu lâm vừa đăng trên mạng K13toan6872 ngày hôm
qua.
Nhưng có
lẽ chị Thanh “kèm cặp” anh Cận ghê quá nên anh Cận bây giờ vẫn gầy như xưa;
được cái là vẫn đẹp trai và trẻ như xưa. Và,…và,…vì vậy chắc chắn một điều đến
giờ anh Cận chưa hiểu khái niệm “nhà nghỉ” thời nay, nên đôi lần anh Nắp (trộm
vía anh Nắp) nói về “nhà nghỉ” thì anh Cận cứ ngu ngơ như “bò đội nón”.
Người
buôn chuyện (11/4/2012)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét