Chủ Nhật, 6 tháng 1, 2013

Phạm Duy và bạn thơ A1

(Trích Vang vọng một thời - Mùa hè, 2012) 
Hiếu Dũng - Ngân Vi

Kỳ 1: Tao ngộ hoa sim


Nhạc sĩ Phạm Duy bảo, ông may mắn khi quen biết được nhiều người bạn tài hoa. Mỗi thi sĩ Phạm Duy gặp gỡ trong cuộc đời đều dạy cho ông một bài học giá trị nào đó. Nếu ở Hoàng Cầm là tình yêu đất nước, Lưu Trọng Lư là chất lãng mạn, Quang Dũng là cốt cách nghệ sĩ… thì Phạm Thiên Thư chính là cái duyên đã đưa ông vào cõi siêu thực.

Màu tím hoa sim - một kiệt tác của nhà thơ Hữu Loan đã làm lay động biết bao tâm hồn. Được Phạm Duy phổ nhạc, bài thơ mang tên mới Áo anh sứt chỉ đường tà, và trở thành một trong những ca khúc bi hùng nhất về người lính. 
Nhạc sĩ Phạm Duy lúc vui vẫn kể rằng, sinh thời bố ông - nhà văn Phạm Duy Tốn thường viết truyện cười châm biếm các thi sĩ nửa mùa. Cũng vì có người bố như vậy mà “đời tôi, có những khi nổi hứng định làm thi sĩ thì tôi vội vàng bỏ ý định đó ngay. Chỉ sợ ông bố đội mồ sống dậy đưa mình vào truyện tiếu lâm!”. Phạm Duy chia sẻ, học tập bố mình, ông cũng có thể gọi là khắt khe trong việc nhận thức cái hay cái đẹp, đặc biệt là đối với thơ ca.
                             Nhà thơ Hữu Loan (trái) và nhạc sĩ Phạm Duy - Ảnh: nhân vật cung cấp

Bởi vì cái sự không dễ dãi ấy nên nếu có lần rung động, thì đó chắc chắn phải là sự rung động tuyệt đối. Mỗi bài thơ Phạm Duy tâm đắc, ông đều muốn phổ thành nhạc. Trong số những đóng góp to lớn cho nền âm nhạc dân tộc, có khoảng hơn 300 tác phẩm được ông phổ từ thơ. Nói nhạc khúc nâng cao lời thơ ý thơ để diễn tả tài năng thiên phú của Phạm Duy quả thật chẳng ngoa. Một số ca khúc phổ thơ rất thành công của ông như: Ngậm ngùi, Tiếng sáo thiên thai, Áo anh sứt chỉ đường tà, Đưa em tìm động hoa vàng, Em lễ chùa này, Bên kia sông Đuống, Còn chút gì để nhớ… tự thân chúng vốn dĩ đã là những bài thơ nổi tiếng, nhưng khi đặt lên khuông nhạc của Phạm Duy thì càng thêm phần thăng hoa.


Phạm Duy yêu họ. Họ, Hoàng Cầm, Lưu Trọng Lư, Quang Dũng, Phạm Thiên Thư, Hữu Loan... lần lượt ghi dấu vào những cột mốc cuộc đời lẫn âm nhạc của Phạm Duy một cách hiển nhiên và gần gũi



Vậy, bên cạnh khả năng lĩnh hội và kỹ thuật điêu luyện, điều gì tạo ra sự giao thoa nghệ thuật ấy? Theo lời Phạm Duy, trừ những người đã khuất từ rất lâu: đại thi hào Nguyễn Du, Hàn Mặc Tử, Bích Khê..., giữa ông và hầu hết cha đẻ của các bài thơ ông phổ nhạc đều nảy sinh mối duyên nào đó, rồi trở thành tri kỷ. Có người gặp gỡ trong kháng chiến, có người qua sinh hoạt nghệ thuật mà quen biết, có người lại tìm nhau vì cảm mến lời thơ tiếng nhạc… Phạm Duy yêu họ. Họ, Hoàng Cầm, Lưu Trọng Lư, Quang Dũng, Phạm Thiên Thư, Hữu Loan… lần lượt ghi dấu vào những cột mốc cuộc đời lẫn âm nhạc của Phạm Duy một cách hiển nhiên và gần gũi.
Năm 2005, nhạc sĩ Phạm Duy trở về quê hương sau ba mươi năm xa cách...
Vào một ngày mưa gió năm 2006, nhân chuyến du lịch trên đường cái quan, Phạm Duy đi ngang qua tỉnh Thanh Hóa. Hỏi thăm mới biết, nhà thơ Hữu Loan còn sống tại làng nhỏ Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn. Ông liền đi xe ôm tìm đến. Trước mặt Phạm Duy, anh cán bộ trong ủy ban kháng chiến ngày ngày cưỡi ngựa đi công tác khắp nơi hôm nào giờ đã là cụ già tóc bạc. Hồi đó ở chiến khu, hai người vẫn hay hàn huyên chuyện văn chương non nước. Một nửa thế kỷ trôi đi, cả hai gặp lại nhau trong hoàn cảnh gần đất xa trời (lúc ấy Hữu Loan đã hơn 90 tuổi), chỉ kịp ôn lại dăm ba câu chuyện cũ rồi chia tay… Cảm xúc về buổi gặp gỡ cuối cùng với nhà thơ Màu tím hoa sim vẫn đọng mãi nơi tiềm thức người nhạc sĩ: “Lúc đó tôi thấy anh Hữu Loan đã hơn 90 tuổi mà hãy còn khỏe mạnh thì mừng lắm”.
Phạm Duy nhớ lại: “Cuối năm 1947, tôi từ Việt Bắc (Cao-Bắc-Lạng) xuống Khu 3 (Chợ Đại, Cống Thần) rồi có ý định đi theo Trần Văn Giàu vào Nam chiến đấu. Nhưng khi vào tới Thanh Hóa (Khu 4 - làng Quần Tín) thì tôi gặp tướng Nguyễn Sơn và ở lại đó, gia nhập Ban Văn nghệ của Trung đoàn 304. Tại đây tôi gặp Hữu Loan...
Đầu húi cua, tiếng nói lớn, và khi ngủ thì ngáy như sấm, vậy mà khi làm thơ thì toàn thơ buồn. Anh vừa góa vợ và có một bài thơ rất buồn thương là bài Màu tím hoa sim mà nhiều người đã phổ nhạc, trong đó có tôi (có hai người khác phổ nhạc nữa là: Dzũng Chinh với tên Những đồi hoa sim và Anh Bằng thì lấy tên là Chuyện hoa sim). Nhưng đến khi tôi phổ nhạc xong bài thơ thì chính quyền hồi đó (1948) cho rằng bài thơ tiêu cực quá, nên tôi không muốn phổ biến bài hát đó. Sau này, khi tôi vào Sài Gòn sinh sống, tới năm 1971 tôi mới chính thức tung ra bài hát. Khi đó, tôi đặt tên cho bài hát là Áo anh sứt chỉ đường tà.
Theo tôi, bài Áo anh sứt chỉ đường tà tuy có vẻ buồn thương, nhưng không bi lụy mà bi hùng! Tôi nghĩ, bổn phận của người nghệ sĩ trong thời chiến phải biến cái bi thành cái hùng. Bài thơ của anh Hữu Loan có cả hai yếu tố đó và trong bản nhạc người nghe cũng nghe được cả hai tiếng: tiếng hùng và tiếng bi. Tôi soạn thành một “ca khúc” dài tới 7 đoạn gồm khoảng 80 khuông.
Vì là một truyện ca dài, bài hát được chia ra 6 đoạn, nói tới chuyện một anh chiến binh từ mặt trận trở về, cưới xong người con gái anh yêu, rồi lại phải trở về quân ngũ. Ở chiến trường, nhiều khi nhớ vợ, lo lắng cho vợ. Ở quê nhà, bỗng không may người vợ trẻ bị chết đuối, anh không được gặp mặt vợ. Lòng anh rất buồn nhưng vẫn hăng hái theo đoàn chiến sĩ ra đi. Trên đường hành quân, qua những đồi sim, anh nghe thấy có tiếng văng vẳng ru: À ơi, Áo anh sứt chỉ đường tà, vợ anh chết sớm, mẹ già chưa khâu...”.


Kỳ 2: Người tình sông Đuống


“Hoàng Cầm dạy cho tôi tình yêu quê hương đất nước. Tôi còn học được ở Hoàng Cầm một tinh thần vững vàng, dù cuộc đời người thi sĩ ấy nhiều lắm những trắc trở và khổ cực”. (Phạm Duy)

Nhạc sĩ Phạm Duy và nhà thơ Hoàng Cầm đã có khoảng hai năm trời sống chung gắn bó. Theo lời Phạm Duy, tình bạn của họ thân thiết đến độ “chung chăn chung chiếu chung chè chén”. Chưa có người bạn nào tâm đầu ý hợp với ông hơn Hoàng Cầm. Vì thế mà sau này, dù đã xa nhau hơn nửa vòng trái đất, họ vẫn thường xuyên viết thư hoặc đánh điện hỏi han chia sẻ. Khi được Phạm Duy bày tỏ lòng yêu mến với Hoàng Cầm trong tôi, nhà thơ của Lá diêu bông liền ân cần phúc đáp lại bằng Phạm Duy trong tôi. Một cách biểu hiện tình cảm rất chân thành, rất đẹp của hai con người đã cùng nhau đi qua gần hết thăng trầm, hạnh phúc.
Sau một thời gian là đoàn viên của Đoàn văn nghệ Giải phóng Trung ương, hoạt động ở khắp vùng thượng du Việt Bắc, một ngày cuối thu 1947, Phạm Duy từ biệt đoàn này và tới vùng Bắc Giang, đầu quân vào Đoàn văn nghệ của Khu 12. Trong Phạm Duy trong tôi, Hoàng Cầm viết: “Vào một buổi chiều cuối thu 1947, trên đường đê sông Máng đi từ đập Takun (tiếng Pháp đặt thay tiếng Việt: tên gọi đập Thác Huống) có 3 người, 1 quàng guitare, 1 đeo accordéon, 1 cầm clarinette, ngơ ngác hỏi thăm chỗ đóng quân của đội văn nghệ tuyên truyền Khu 12. Đó là các anh Phạm Duy, Ngọc Bích và Ngọc Hiền, đang tìm về với đội văn nghệ của Hoàng Cầm sau khi Đoàn kịch Chiến Thắng của các anh giải thể. Tối hôm đó, trong căn nhà ấm cúng ven rừng Yên Thế, trong ánh sáng ngọn đèn măng sông, ông Lê Quảng Ba giới thiệu ba chàng văn nghệ sĩ này với tôi. Ồ, có gì lạ nhau đâu, Phạm Duy đây mà, với giọng nói cố làm ra vẻ trịnh trọng: “Tôi ở trên ban văn nghệ trung ương, nghe tin anh Hoàng Cầm mới lập một đội văn nghệ lưu động, tôi và hai bạn tôi đây nhất quyết về với các bạn Khu 12, vì toàn là trẻ trung cả”. Rồi qua cặp kính trắng rất tài tử, Phạm Duy chớp chớp đôi mắt lẳng lơ nhìn các nữ diễn viên trẻ đẹp của tôi: Tuyết Khanh, Thúy Nga, Kim Oanh, đến nỗi cả ba cùng ngượng nghịu, đưa mắt nhìn nhau, tủm tỉm. Tôi với Phạm Duy quen biết nhau từ sau Cách mạng Tháng Tám. Chỉ biết qua loa về gia cảnh anh, hình như có chuyện éo le gì đó. Mới 15 tuổi anh đã bỏ nhà đi theo những bậc đàn anh như Nguyễn Xuân Khoát, Lê Thương, Đàm Quang Thiện, học được cách ghi xướng âm và những điều cơ bản về âm nhạc, chẳng bao lâu tài năng bộc lộ, anh chịu khó chắt lọc, sử dụng tinh hoa dân ca miền Bắc. Vốn thông minh, học một biết hai, anh đã có thể đi đàn ở các tiệm nhảy để mưu sinh...”.
                               Nhà thơ Hoàng Cầm và nhạc sĩ Phạm Duy - Ảnh: nhân vật cung cấp

Về phía Phạm Duy, ông bảo: “Gặp Hoàng Cầm, tôi yêu nó ngay. Nó bằng tuổi tôi. Trong khi tôi thích đùa rỡn thì nó giống như một ông đồ non, lúc nào cũng ngồi hút thuốc lào, rung đùi, trầm ngâm”. Thế, hai con người sinh ra để gây duyên gầy nợ, thành thử việc Phạm Duy quyết định phổ thành nhạc cho bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm cũng là chuyện rất đỗi bình thường.
Hiếm có thứ tình nào tuyệt mỹ như vậy. Nếu Phạm Duy luôn miệng khẳng định Hoàng Cầm là một nhà thơ lớn trong kháng chiến thì Hoàng Cầm từng tâm sự rằng: “Tôi thường chiều ý Phạm Duy, vì biết cứ xê dịch luôn, có cảnh đẹp lạ mắt, có những cô gái xinh tươi thì thể nào Phạm Duy cũng bật ra được những giai điệu say mê, trữ tình, mặc dù đề tài nhiều bài ca nổi tiếng của anh không phải là chuyện tình nam nữ hoặc chuyện xa cách nhớ nhung, thở ngắn than dài như một số ca khúc buồn trước cách mạng”. Suốt những năm tháng kề vai sát cánh, họ chắp cánh cho nhau. Rất dễ dàng nhận thấy Hoàng Cầm đã ảnh hưởng tới sự nghiệp Phạm Duy như thế nào. Một giai đoạn trong cuộc đời soạn nhạc của Phạm Duy mang đậm dấu ấn Hoàng Cầm: Giai đoạn Hoàng Cầm ca, dù khi ấy, họ đang xa cách nhau đến nghìn trùng.
Cười như mùa thu tỏa nắng
Một ngày nọ trên đất Mỹ, Phạm Duy bỗng tình cờ gặp được cô con gái của Hoàng Cầm với người vợ cũ Tuyết Khanh. Cô tên Kiều Loan - tên của một vở kịch thơ do chính bố Hoàng Cầm sáng tác và mẹ Tuyết Khanh thủ vai chính vào năm 1945. Phạm Duy nhận Kiều Loan làm con nuôi, hết lòng nâng đỡ về mặt tinh thần như chính con ruột của mình.
Mùa xuân năm 2000, Phạm Duy trở về Hà Nội, người bạn đầu tiên mà ông tới thăm là thi sĩ Hoàng Cầm. Họ tự nhận nhau là: “Hai thằng bạn già, vượt thời gian không gian”.
Hôm biết tin người tri âm tri kỷ của mình tạ thế, Phạm Duy không nén nổi xúc động mà viết:
 “12 giờ trưa ngày thứ năm, 6.5.2010
Ông Hoàng của tôi ơi!
Tôi vừa soạn xong bản nhạc phổ thơ bài Bên kia sông Đuống và đã đưa cho người soạn hòa âm để thu thanh, với ý định tặng riêng ông cho ông nghe để ông đỡ buồn (vì thấy ông không có một bài viết nào trên các báo xuân vừa rồi, nghĩ rằng ông ốm)... thì nghe tin ông vừa qua đời sáng hôm nay!
Thế là tôi lại mất đi một người bạn tốt, đã từng chia sẻ với nhau những vinh quang và tủi nhục của cuộc đời.
Phải xa nhau gần nửa thế kỷ, khi cuộc đời Việt Nam đã bình thường rồi thì chúng ta đã trao đổi thư từ trong đó, hai ông già ngoài 70 tuổi vẫn cứ xưng hô mày tao như trong tuổi 20. Chúng ta đều cho rằng cả hai thằng bạn, vào lúc gần đất xa trời, rốt cuộc đều thấy đời mình chỉ là một cuộc chơi! Cuộc chơi đã đưa hai đứa lên rất cao, rồi cũng đã dìm hai thằng xuống rất sâu nhưng cả hai kẻ lãng tử này đều được cứu rỗi bởi một sợi dây bí ẩn. Đó là sợi dây cảm nhận, rung động và sáng tạo nghệ thuật làm cho chúng ta, sau nhiều cơn vật vã, vẫn có thể gạn đục khơi trong rồi làm ra những vần thơ điệu nhạc lung linh sức sống kỳ diệu của con người. Vâng! Nghệ thuật đã rửa hồn chúng tôi, như Hoàng Cầm nói: ton art purifie ton âme và sẽ còn giúp chúng ta đi nốt con đường chúng ta đã chọn là con đường tình: tình nước, tình người.
Vĩnh biệt người bạn cố tri. Chúc ông yên vui trong giấc ngủ ngàn thu”
Nằm trên giường bệnh, nghe nhắc về Hoàng Cầm, Phạm Duy lại khe khẽ đọc đôi câu thơ trong bài Bên kia sông Đuống:
“Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng”

Rồi ông chùng giọng xuống: “Hồi xưa đẹp lắm, giờ không còn được thế nữa...”.


Kỳ 3: Dưới bóng trăng mờ


Nhạc sĩ Phạm Duy nói: “Tôi sung sướng được ghi nhận sự chịu ảnh hưởng thơ Lưu Trọng Lư của tôi và cám ơn bạn Hoàng Cầm đã nhắc lại chuyện đó trong cuốn Hoàng Cầm - Văn xuôi (Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội tháng 11, năm 1999)”.

Năm 1944, Phạm Duy theo gánh hát Đức Huy đóng neo tại Đà Nẵng. Nơi đây, ông có duyên gặp gỡ nhà thơ Lưu Trong Lư - tác giả của các bài thơ Tiếng thu, Vần thơ sầu rụng, Thú đau thương, Còn chi nữa mà ông đã phổ nhạc sau này. Đó là quãng cậu trai trẻ Phạm Duy Cẩn (tên khai sinh của Phạm Duy) miệt mài đi tìm thầy học nghề. Còn chàng thi sĩ Lưu Trọng Lư lúc bấy giờ đang là ông giáo dạy học ở một trường tỉnh.
 Phạm Duy và Lưu Trọng Lư (phải) Phạm Duy và Lưu Trọng Lư (phải) - Ảnh: tư liệu
Phạm Duy kể: “Tin đồn về chàng du ca đầu tiên đã đi rất nhanh từ Thanh Hóa vào Vinh tới Huế và bây giờ thì thanh niên nam nữ Tourane (Đà Nẵng - PV) kéo nhau tới rạp để nghe tôi hát. Đã rất tự tin ở mình, đã biết trau dồi tài nghệ cũng như sắc đẹp. Đã để tóc dài cho có vẻ nghệ sĩ. Đã sắm được bộ áo mùa lạnh bằng nỉ được gọi là nỉ pattes de poule đủ sưởi ấm lòng tôi trong những ngày mùa lạnh ở Tourane này....”. Trong số những người đến nghe ông hát có thi sĩ Lưu Trọng Lư.


Đối với Phạm Duy, giai đoạn quen biết Lưu Trọng Lư là những tháng ngày êm ái nhất của ông. Đôi mắt màu hạt dẻ xưa kia vẫn ám ảnh Phạm Duy vào mỗi lúc tâm hồn ông cựa mình nhớ về một thời phiêu lãng



Phạm Duy chắc nịch rằng, trước giờ chưa từng gặp ai “nên thơ” như Lưu Trọng Lư, “chưa gặp anh đã nghe nói anh là người rất lơ đãng. Gặp anh rồi thì nhìn bề ngoài của anh cũng đã thấy anh là một con nai vàng ngơ ngác”. Cái chất lãng mạn của người thi sĩ ấy đã làm Phạm Duy yêu thích vô cùng. Những giai thoại đầy ngẫu hứng của hai con người tài hoa ấy lần lượt ra đời. Phạm Duy nhớ lại: “Lần đầu nghe tôi hát, Lưu Trọng Lư đã nằng nặc lôi tôi lên xe kéo đưa tôi tới trường học để hát cho học trò của anh nghe. Sau khi tôi hát cho lũ học trò xanh xao gầy gò nghe bài Buồn tàn thu thì nhà giáo Lưu Trọng Lư đầu bù tóc rối, quần áo lôi thôi lếch thếch và nát nhàu, móc ở trong túi ra những mẩu thơ để tặng tôi ngay trong lớp học. Tôi nhớ rất kỹ đó là những đoạn thơ của bài Giang hồ mà khi in ra thì anh Lư đề tặng Nguyễn Tuân và Vũ Hoàng Chương:
Mời anh cạn hết chén này
Trăng vàng ở cuối non tây ngậm buồn
Tiếng gà đã rộn trong thôn
Nửa đời phiêu lãng chỉ còn đêm nay...
Rồi họ ôm chầm lấy nhau, cùng những lời hẹn thề thơ ca và nhiều câu chuyện liên quan đến đàn bà. Lưu Trọng Lư - một trong số những thi sĩ tiêu biểu của phong trào Thơ mới có lối sống rất hào phóng, khoáng đạt. Câu chuyện Lưu Trọng Lư tặng cho “thằng em trai” chí cốt một cô nhân tình có đôi mắt màu hạt dẻ đã được chính miệng Phạm Duy kể lại trong thượng thọ thứ chín mươi mốt của mình, nhân có người con trai thứ ba của Lưu Trọng Lư là Lưu Trọng Văn đến tham dự.
Gánh hát dọn đi, và họ chia tay nhau...
Năm 1946, một dịp rất tình cờ, họ tái ngộ nhau ở Huế. Hình ảnh Lưu Trọng Lư chưa bao giờ thay đổi trong tâm trí Phạm Duy, từ cuộc gặp ban sơ cho đến tận giây phút hôm nay… “Gặp lại anh Lư ở Huế vào những ngày đầu của Cách mạng, tôi vẫn thấy anh "nên thơ" như cũ và tin rằng chẳng bao giờ anh hết nên thơ dù rằng sau này có nhiều phen anh cứ phải tuyên bố là đã giơ tay xua đuổi con nai vàng ở trong anh chạy đi”. Cũng thời gian này, Phạm Duy đã phổ nhạc bài thơ bất hủ của Lưu Trọng Lư, bài thơ Tiếng thu:
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô?”...
Họ lại chia tay, sau khi ngả đầu nằm cạnh nhau, lắng nghe tiếng đàn tranh của chị Mừng - vợ thi sĩ Lưu Trọng Lư vào một đêm trăng huyền hoặc. Đó là cuộc gặp cuối cùng của họ.
Năm 2000, trở về Việt Nam, Phạm Duy được tới viếng mộ cố nhân, mộ nằm ngay trong vườn nhà các con của Lưu Trọng Lư ở Tân Thuận, TP.HCM. Đối với Phạm Duy, giai đoạn quen biết Lưu Trọng Lư là những tháng ngày êm ái nhất của ông. Đôi mắt màu hạt dẻ xưa kia vẫn ám ảnh Phạm Duy vào mỗi lúc tâm hồn ông cựa mình nhớ về một thời phiêu lãng.
Cái duyên sâu đậm giữa Phạm Duy và Lưu Trọng Lư chưa chịu dừng lại ở đó. Nhạc sĩ Phạm Duy khá thân thiết với nhà thơ Lưu Trọng Văn - con trai của Lưu Trọng Lư. Ngoài phòng khách nhà Phạm Duy có treo một bức chân dung của ông do Lưu Trọng Văn tặng, bên cạnh đề bài thơ Về thôi. Bài thơ như là một trong nhiều lý do thôi thúc Phạm Duy trở về quê hương sau bao năm trời xa cách. Theo Phạm Duy thì: “Đầu năm 2000, tôi đáp máy bay về Việt Nam, có lẽ cũng chỉ vì có tiếng gọi tha thiết của một thi sĩ, tiếng gọi mơ màng của một o đò, tiếng gọi nồng nàn của tình yêu…”.
Về thôi, người tình già ơi
Về thôi
Làm gì có trăm năm mà đợi
Làm gì có kiếp sau mà chờ
Đất Mẹ - Đất Nàng
Con sáo sang sông
Tha cọng rơm vàng lót ổ
Mười chín năm tình cũ
Người tình già ơi
Nhớ không?
(14.10.1994)

(Còn tiếp) 



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét