Chủ Nhật, 6 tháng 1, 2013

Phạm Duy và Bạn thơ B2

(Trích Vang vọng một thời - Mùa hè 2012)

Hiếu Dũng & Ngân Vi

Kỳ 4: Đêm mơ Hà Nội

“Trong kháng chiến tôi có may mắn gặp hai nhà thơ hay nhất ở hai vùng khác nhau là Hoàng Cầm và Quang Dũng. Có lẽ khung cảnh mỗi vùng kháng chiến khác nhau nên thơ của Quang Dũng có vẻ âm u huyền bí trong khi thơ Hoàng Cầm rất trong sáng. Đường Tây Tiến không phẳng lặng, bình an như đường về sông Đuống…” (Phạm Duy).
Thật ra, trước khi gặp nhau trong kháng chiến, nhà thơ Quang Dũng nhạc sĩ Phạm Duy đã là bạn từ thời mài đũng quần trên ghế nhà trường. Phạm Duy kể lại rằng, lúc còn đi học ở Trường Thăng Long vào năm 1934, ngồi sau ông hai hàng ghế là sinh viên Bùi Đình Diễm (hoặc Bùi Đình Dậu), tức thi sĩ Quang Dũng trong tương lai.
“Khi tôi học trung học ở Trường Thăng Long Hà Nội, tôi có cậu bạn học sau này là thi sĩ nổi danh với bài thơ Tây Tiến: Quang Dũng. Anh tên thật là Dậu, lúc mới 15, 16 tuổi anh đã cao lớn đô con nhưng hiền và ít nói lắm. Hồi đó tôi chưa thân với anh vì anh không nghịch phá như chúng tôi, nhưng sau này khi tản cư ra vùng kháng chiến thì chúng tôi khá thân với nhau.
Đêm mơ Hà Nội
Quang Dũng (ngoài cùng bên trái) gặp Văn Cao (ngoài cùng bên phải) và bạn bè trong kháng chiến - Ảnh: tư liệu
Thuở ấy thi sĩ Quang Dũng đang là đại đội trưởng trong Trung đoàn Tây Tiến, đôi khi được về phép với gia đình Quang Dũng lại tạt qua Kinh Đào gần chợ Đại để gặp người tình vũ nữ tên Nhật, bán cà phê ở vùng kháng chiến, còn có biệt danh là Akimi.
Phải chăng nàng là “em” mà Quang Dũng đã tặng những câu thơ: Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm/Em đã bao ngày em nhớ thương. Rồi sau này khi tôi gặp Akimi tại Mỹ năm 1989, nàng còn đọc cho tôi câu thơ mà thi sĩ Quang Dũng chép tặng lên vách nứa của quán nàng : Tóc như mây cuốn, mắt như thuyền/Khuấy nước Kinh Đào sóng nổi lên/Ý nhị mẹ cười sau nếp áo/Non sông cùng đắm giấc mơ tiên… Quang Dũng rất giống tính tôi ở chỗ quý trọng sự riêng tư độc lập của mình. Đi kháng chiến đã ở nhà đồng bào mà còn chăng dây bao quanh chỗ mình nằm và treo mảnh giấy có dòng chữ: Xin mọi người đừng bước vào đây. Thế nhưng trước con gái đẹp, vị kỷ đến đâu thì cũng phải lụy ông bà thân sinh của người đẹp. Điểm giống nhau của chúng tôi còn là đều từng có mối tình vũ nữ đậm đà mãnh liệt.
Trong kháng chiến, họ có cùng nhau biết bao kỷ niệm, không ít lần “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm và chỉ mong có ngày trở về miền Sông Đáy chậm nguồn để nghe sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng...”.  Cái kiểu lãng mạn thời ấy và nỗi lòng mênh mênh mang mang của hai chàng trai trẻ
 Rồi anh cũng từng bỏ nhà đi theo gánh hát với tư cách nhạc công đàn cò, anh không học trường mỹ thuật như tôi nhưng cũng thích vẽ và từng làm họa sĩ, dùng cái bút lông để được lê gót giang hồ. Trong kháng chiến Quang Dũng tham dự một cuộc triển lãm với bức tranh Gốc bàng rất ấn tượng. Anh còn soạn nhạc nữa, bài hát Nhớ Ba Vì của anh được dân vùng kháng chiến hát lên trong nhiều năm.
Sau khi ở nhà Lê Khải Trạch về Chợ Neo, chúng tôi đạp xe 15 cây số cùng nhau, tôi có hỏi thăm anh về Akimi, anh vừa đạp xe vừa đọc cho tôi nghe bài thơ Đôi bờ: … Đêm đông sông Đáy lạnh đôi bờ/Thoáng em hiện về trong đáy cốc/Nói cười như chuyện một đêm mơ/Xa quá rồi em người mỗi ngả/Bên này đất nước nhớ thương nhau/Em đi áo mỏng buông hờn tủi/Dòng lệ thơ ngây có dạt dào…
Sáng hôm sau Quang Dũng đạp xe về đơn vị, tôi ngồi bên bờ sông máng phổ nhạc bài thơ Tây Tiến mà anh vừa viết ở Phù Lưu Chanh. Tôi nhớ đoạn cuối, đáng lẽ nét nhạc phải về chủ âm Sol thì câu hát Đường về Sầm Nứa chẳng về xuôi tôi kết thúc với nốt La ngang phè, giống như trên đường hành quân đoàn binh không mọc tóc của Quang Dũng quyết tử ra đi vậy”.

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Trước đó, khi gặp nhau tại chợ Đại (Hà Đông), Quang Dũng đọc cho Phạm Duy nghe bài thơ Tây Tiến. Vừa nghe qua mấy câu, Phạm Duy đã có ý định phổ nhạc ngay. Và cũng vừa nghe qua mấy câu, nhạc sĩ đã đem lòng quý mến hơn người thi sĩ này. Trong kháng chiến, họ có cùng nhau biết bao kỷ niệm, không ít lần “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm và chỉ mong có ngày trở về miền Sông Đáy chậm nguồn để nghe sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng...”.  Cái kiểu lãng mạn thời ấy và nỗi lòng mênh mênh mang mang của hai chàng trai trẻ.
Thế rồi, những người bạn tri kỷ (và nổi tiếng) của Phạm Duy lần lượt ra đi…
Song có lẽ, sự ra đi khiến ông ngậm ngùi nhất là ngày ông nghe tin Quang Dũng mất trên giường bệnh tại Hà Nội sau thời gian dài bị liệt một cánh tay và nói năng không rõ do tai biến mạch máu não.Vậy là, anh bạn Quang Dũng hào hoa phong nhã của Phạm Duy đã từ giã cõi đời vì bệnh tật. Hình ảnh cậu sinh viên to con lành tính chả bao giờ tham gia vào bất kỳ cuộc “làm loạn” nào của lớp học thuở nhỏ như còn nguyên vẹn và giờ ngủ yên ở miền quá khứ. Sắp bước qua tuổi chín mươi ba, nhưng từng câu từng chữ trong bài thơ Tây Tiến năm nao vẫn in đậm trong trí nhớ của nhạc sĩ Phạm Duy:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
 Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
 Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
 Mường Lát hoa về trong đêm hơi
 Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
 Heo hút cồn mây súng ngửi trời
 Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
 Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
 Anh bạn dãi dầu không bước nữa
 Gục lên súng mũ bỏ quên đời
 Chiều chiều oai linh thác gầm thét
 Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
 Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi...”.

Kỳ 5: Đưa nhau tìm động hoa vàng

 Theo lời Phạm Duy, trong các mối thâm giao, người mà ông thương nhất chính là nhà thơ Phạm Thiên Thư. Bên cạnh những tác phẩm: Gọi em là đóa hoa sầu, Đưa em tìm động hoa vàng, Ngày xưa Hoàng thị..., thi sĩ này còn góp phần vào sự nghiệp sáng tác âm nhạc của Phạm Duy bằng mười bài đạo ca - một mảng thật sự ý nghĩa và quan trọng đối với cuộc đời ông.

Từ khi trở về Việt Nam, Phạm Duy có thói quen ngồi cà phê vào mỗi sáng thứ bảy hằng tuần trên đường Ngô Đức Kế (TP.HCM). Nhiều người bạn thương mến ông biết được nên vẫn thường ghé qua hàn huyên tâm sự, dĩ nhiên là không thể vắng mặt thi sĩ Phạm Thiên Thư.
Cuối năm 2011, Phạm Thiên Thư cùng vợ đến dự đám cưới Duy Cường - con trai thứ của Phạm Duy - tại một nhà hàng sang trọng ấm cúng. Nhạc sĩ lúc ấy hãy còn khỏe mạnh và rất linh hoạt. Ông ngồi cạnh Giáo sư Trần Văn Khê, song thi thoảng có đứng dậy đi tới phía bàn Phạm Thiên Thư cười nói vui vẻ. Cuối tiệc, khi khách khứa đã vãn, ba người họ ngồi chung lại với nhau, trao đổi một vài câu chuyện giản dị. Nếu như Phạm Duy là người ăn nói hào sảng thì Phạm Thiên Thư lại mang cốt cách của người tu sĩ thâm trầm, dáng vẻ khoan thai. Hình ảnh ba mái đầu bạc thân tình bên nhau khiến người ta không khỏi xúc động. Trước lúc chào ra về, Phạm Thiên Thư còn gửi tặng “người tình già” tập thơ Thiền mới nhất của mình.
Ảnh: nhân vật cung cấp
Ảnh: nhân vật cung cấp
Khoảng nửa năm sau, nhạc sĩ Phạm Duy bị một trận bệnh nặng khi tham gia đêm nhạc ở Hà Nội. Từ đấy, ông không còn đủ sức ngồi cà phê vào mỗi sáng thứ bảy nữa. Hằng ngày, ông mắc đi châm cứu ở nhà bác sĩ Trương Thìn nên các cuộc gặp gỡ bạn bè cũng dần thưa thớt. Riêng Phạm Thiên Thư vẫn đều đặn hoặc tới nhà, hoặc gọi điện thoại hỏi thăm Phạm Duy. Họ như chưa từng lãng quên nhau trong cuộc đời, dù thời gian đã làm những bước chân già nua ngày càng trở nên nặng nhọc. Một lần nọ trên giường bệnh, đang nằm lim dim nghe kể về đêm nhạc Tình ca của Tùng Dương có cô ca sĩ khách mời Nguyên Thảo trình diễn bài Đưa em tìm động hoa vàng hay lắm, Phạm Duy liền ngẫu hứng vừa nhịp chân vừa cất lời hát (nói hát nhưng thực tế là thì thào, vì sức ông bấy giờ quá yếu):
“Rằng xưa có gã từ quan
Lên non tìm động hoa vàng ngủ say
Thôi thì thôi để mặc mây trôi
Ôm trăng đánh giấc bên đồi dạ lan
Thôi thì thôi chỉ là phù vân
Thôi thì thôi nhé có ngần ấy thôi
Chim ơi chết giữa cội hoa
Tiếng kêu rơi rụng giữa ngân hà
Mai ta chết dưới cội đào
Khóc ta xin nhỏ lệ vào thiên thu”
Về mối lương duyên dẫn đưa mình vào đạo ca, Phạm Duy đã viết:
“Sau vụ Tết Mậu Thân, tức là khoảng 1969 - 1970, giới văn nghệ sĩ ở Sài Gòn bị dao động trước những biến cố của đất nước, có chủ trương trở về nguồn. Cơ sở văn nghệ hoặc tập san đều chọn những tên thấm nhuần tinh thần về nguồn: An Tiêm, Ca Dao, Giữ Thơm Quê Mẹ... Trong văn có Lý Chánh Trung với cuốn Tìm Về Dân Tộc, có Người Việt Đáng Yêu của Doãn Quốc Sĩ... Trong nhạc có nhóm Tiên Rồng, nhóm Nguồn Sống và có tôi với nhạc tập Dân Ca và cuốn Biên khảo về dân nhạc.
Về nguồn, nghĩa là về với mình - về với loại nhạc của cõi tâm - thì tôi muốn thăng hoa mọi thứ lên. Lúc đó cũng có nhiều người muốn làm như tôi, ví dụ như Phạm Thiên Thư. Anh là một nhà sư trẻ (đạo danh Tuệ Không), có một đàm trường - kiểu đàm trường Viễn Kiến của Nguyễn Đức Quỳnh - để bạn bè tới nói chuyện văn nghệ. Tất cả đều rất trẻ nhưng cung cách của họ giống như các ông cụ non. Tuy nhiên khi đàm luận với nhau, họ không có gì là lúng túng hết. Họ rất ung dung và họ cũng rất già dặn trong tâm hồn, bởi vì họ già trước tuổi. Khi phải sống dưới biết bao nhiêu đe dọa (đi lính chẳng hạn), cũng như trong hoàn cảnh kinh tế sa sút, họ chỉ còn có cách trốn vào một đàm trường, vào một cái vỏ trong đó họ có thể ung dung ngồi nói chuyện thi phú, nói chuyện tư tưởng, những chuyện nhẹ nhàng bên trong với nhau, không lý gì đến chuyện bên ngoài và không cần phải ai biết đến họ.
Sự gặp gỡ của tôi với Phạm Thiên Thư - mà thi sĩ gọi là của một ngọn núi và một đám mây - là nhờ ông Nguyễn Đức Quỳnh. Vào năm 1971, ông Quỳnh bị ung thư dạ dày và vào nằm trong bệnh viện cho hai bác sĩ Phạm Biểu Tâm và Trần Ngọc Ninh cứu chữa. Ngày tôi tới thăm ông tại bệnh viện thì gặp Phạm Thiên Thư ở đó. Và chúng tôi yêu mến nhau ngay.
Sau đó, chúng tôi gặp nhau gần như hằng ngày. Gặp tu sĩ Tuệ Không kiêm thi sĩ Phạm Thiên Thư là tôi như thoát xác, vượt ra khỏi những đắng cay, chán chường và bế tắc của tâm ca, tâm phẫn ca, vỉa hè ca. Phạm Thiên Thư đưa cho tôi tập thơ Ðưa em tìm động hoa vàng hay bài thơ Gọi em là đóa hoa sầu... để tôi phổ thành những bài hát thanh cao nhất của thời đại. Ðối với tôi lúc đó, hình ảnh thiền, chùa, động hoa vàng thật là mát mẻ và rất cần thiết. Bài Ðưa em tìm động hoa vàng được rút ra từ mấy trăm câu thơ của thi sĩ, và ta chỉ cần có ba đoạn ca là nói lên hết được cái cảnh ngày xưa, có kẻ từ quan, lên non tìm động hoa vàng... Ðể làm gì? Không phải chỉ để nhớ nhau mà chính ra là để ẩn náu vậy”.

Bài Ðưa em tìm động hoa vàng được rút ra từ mấy trăm câu thơ của thi sĩ, và ta chỉ cần có ba đoạn ca là nói lên hết được cái cảnh ngày xưa, có kẻ từ quan, lên non tìm động hoa vàng... Ðể làm gì? Không phải chỉ để nhớ nhau mà chính ra là để ẩn náu vậy

Kỳ 6: Yêu nhau kiếp nào

 Mối duyên với nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh trải dài gần hết một kiếp người của nhạc sĩ Phạm Duy. Từ những chuyến rong ruổi thời trai trẻ, từ trong kháng chiến, đến mùa đông lạnh lẽo trên đất người... Giai đoạn nào cũng phảng phất bóng hình giai nhân.

Năm 1943, Phạm Duy theo gánh hát Đức Huy tới Huế vào một ngày êm đẹp. Cảm xúc ngày ấy như vẫn ngọt lịm trên từng giác quan người nhạc sĩ. Ông mơ màng hồi tưởng: “Ai tới Huế lần đầu tiên cũng đều cảm thấy như vừa gặp một nơi để biết ái tình ở dòng sông Hương... vì những bầy “Huế nữ” không những đẹp thôi, ăn nói lại mặn mà có duyên. Tôi may mắn được quen biết mấy chị em trong một gia đình quyền quý và được mời tới dinh thự Hương Trang ở Nam Giao chơi... Trong số đó có một cô gái rất trẻ tên là Võ Tá Hoài Trinh. Cô này còn làm thơ nữa, lấy bút danh Minh Đức Hoài Trinh... Nói rằng tôi biết ái tình ở dòng sông Hương là thế, nhưng lúc quen nhau rồi thì cũng phải xa nhau. Tôi tiếp tục sống đời giang hồ, người mới quen dần trôi vào dĩ vãng...”.
Nhạc sĩ Phạm Duy, năm 2007 Nhạc sĩ Phạm Duy, năm 2007 - Ảnh: Diệp Đức Minh 
Cuộc đời Phạm Duy, không ít những cuộc gặp đầy lưu luyến, song phần lớn chỉ là đôi ba khoảnh khắc ngắn ngủi rồi muôn trùng cách biệt. Trường hợp của nữ sĩ Hoài Trinh có thể gói trọn trong một chữ “duyên”. Năm 1948, nơi không gian nhỏ hẹp là khu vực của làng văn nghệ Quần Tín (tỉnh Thanh Hóa) vào thời gian mà cuộc toàn quốc kháng chiến đã gần đi vào năm thứ hai. Phạm Duy kể: “Tôi bấy giờ đang là quân nhân... bỗng gặp lại Minh Đức Hoài Trinh lúc đó được mười bảy tuổi từ thành phố Huế thơ mộng chạy ra với kháng chiến. Nàng còn đem theo đôi gót chân đỏ như son và đôi mắt sáng như đèn pha ô tô. Từ tướng Tư lệnh Nguyễn Sơn cho tới các văn nghệ sĩ, già hay trẻ, độc thân hay đã có vợ con... ai cũng đều mê mẩn cô bé này. Phạm Ngọc Thạch từ Trung ương đi bộ xuống vùng trung du để vào Nam bộ, khi ghé qua Thanh Hóa, cũng phải tới Trường Văn hóa để xem mặt Hoài Trinh. Hồi đó, Minh Đức Hoài Trinh đã được Đặng Thái Mai coi như là con nuôi và hết lòng nâng đỡ”.


Thói đời thích ban cho người đàn bà đẹp cuộc sống trắc trở. Có lẽ vì thế mà đằng sau mỗi nhan sắc yêu kiều thường là tâm hồn cứng cỏi vượt lên mọi nghịch cảnh. Cuộc giao duyên thơ - nhạc của nhạc sĩ Phạm Duy và nữ sĩ Hoài Trinh đã kịp cho ra đời hai bản tình: Kiếp nào có yêu nhau và Đừng bỏ em một mình



Con tạo xoay vần. Họ lại chia tay nhau. Nhưng, Phạm Duy tiếp tục câu chuyện về nữ sĩ Hoài Trinh: “Năm 1954, tôi gặp Minh Đức Hoài Trinh lần thứ ba khi tôi tới Paris ở khoảng hai năm. Nàng đã rời Việt Nam, đang sống với một người em trai trong một căn phòng nhỏ hẹp. Ba lần gặp nhau là rất hy hữu, tôi bèn giao lưu với nàng và soạn được hai bài ca bất hủ”.
Minh Đức Hoài Trinh, trong ký ức của Phạm Duy là một người phụ nữ có tính cách mạnh mẽ pha chút “bạt mạng”. Thói đời thích ban cho người đàn bà đẹp cuộc sống trắc trở. Có lẽ vì thế mà đằng sau mỗi nhan sắc yêu kiều thường là tâm hồn cứng cỏi vượt lên mọi nghịch cảnh. Cuộc giao duyên thơ - nhạc của nhạc sĩ Phạm Duy và nữ sĩ Hoài Trinh đã kịp cho ra đời hai bản tình: Kiếp nào có yêu nhau và Đừng bỏ em một mình.
“Nhạc tình của tôi trong loại nhạc tình cảm tính, nhạc của lứa đôi, nên tôi rất chú trọng tới chữ “nhau”: Cho nhau, Đừng xa nhau... Một bài thơ cũng ở trong chữ ''nhau'' của Hoài Trinh đã nói lên mối tình xanh vẫn còn lo sợ... Bài thơ nhan đề Kiếp nào có yêu nhau...
Anh đừng nhìn em nữa
Hoa xanh đã phai rồi
Còn nhìn em chi nữa
Xót lòng nhau mà thôi
....
Cả bài thơ là một sự nức nở, nghẹn ngào, tiếc nuối... để có thể làm cho người đọc thấy trong lòng buốt giá, tái tê, chết lặng.
Chắc bạn đọc cũng thấy bài thơ phổ nhạc được tôi thêm câu, thêm chữ. Phổ nhạc là chấp cánh cho thơ bay cao. Bài thơ ngắn ngủi, cô đọng này, vì có thêm chữ nên không còn tiết vần đều đều, bằng phẳng nữa. Bây giờ nó quay cuồng theo nét nhạc, câu nhạc. Giai điệu của câu “đừng nhìn em nữa anh ơi” chuyển rất đột ngột, đi từ nốt trầm lên nốt cao nhất với hai “nhẩy bực” quãng 5 để diễn tả sự tột độ của tình cảm. Cái syncope sau câu “đừng nhìn em” làm cho mọi người thấy được sự nghẹn ngào của bài thơ và bài hát...
Nói thêm cho rõ: ca khúc gồm 154 chữ, dài gấp rưỡi bản gốc. Bản gốc là thơ năm chữ theo luật thi, nhịp lẻ; ca từ nhịp chẵn 6-10 theo sườn lục bát vần lưng kết hợp với vần chân; hai câu ngũ ngôn trở thành bát cú (hémistiche) cho câu 10 từ với vần giữa câu. Như vậy, chỉ về âm luật thôi, bài hát đã khác bài thơ. Những câu, những từ, những âm (đừng... đã) luyến láy tạo ý nghĩa mới cho lời thơ - chưa kể nhạc thuật phong phú, tha thiết mang chất bi kịch.
Hẳn người thôi đã quên ta!
Trăng thu gẫy đôi bờ, chim bay xứ xa mờ.
Gặp người chăng? Gặp người chăng, nhắn cho ta
Hoa xanh đã bơ vơ, đêm sâu gối ơ thờ.
Về bài thơ Đừng bỏ em một mình. Sau khi đã thu xếp gọn gàng cuộc tình mười năm với những tình ca đôi lứa như Ngày đó chúng mình, Đừng xa nhau, Con đường tình ta đi... rồi chia tay với người yêu qua những tình ca một mình như Mùa thu chết, Tình hờ, Giết người trong mộng... tại Midway City, vào năm 1970, tôi phổ nhạc một bài thơ như gửi từ dưới mộ:
Đừng bỏ em một mình
Khi trăng về lạnh lẽo
Khi chuông chùa u minh
Chậm rãi tiếng cầu kinh
...
Đừng bỏ em một mình
Mấy ngàn năm sau nữa
Ai mái tóc còn xinh
Đừng bỏ em một mình
Tôi còn gặp lại Minh Đức Hoài Trinh thêm một lần nữa khi chúng tôi di cư qua Mỹ, tới ngụ cư tại Midway City. Nàng cũng tới thị trấn giữa đàng và ở nhà xế cửa nhà tôi”

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét