YÊU THỜI ĐỒ ĐỂU - kỲ 120
Cô vợ trẻ ngoại tình “xì” một cái, quay lưng vào tường. “Tổ
trưởng tổ kiểm tra hồ sơ” bất quá ngang chuyên viên 5, trong nấc thang triều
đình thì còn thua cả chức…Bật Mã On coi chuồng ngựa của Tôn Ngộ Không.
Mặc dầu có đơn kiện cáo vụ xử chết lão Rỹ trong cải cách ruộng
đất, nhưng tội đó ăn nhằm gì, xử lý nội bộ rút kinh nghiệm là cùng, khối cha
tội còn to tầy đình , cứ ép các Đội cải cách quy bằng được 5% địa chủ rồi lôi
con người ta ra bắn cũng có sao đâu, vẫn lên lương lên chức ầm ầm.
Lão “nhân tình già” này không tranh thủ ép lão, mai mốt tìm
được con trẻ đẹp hơn, lão cho mình rơi thì hết lộc. Nghĩ vậy cô kéo tay đồng
chí cán bộ Ban tổ chức đặt lên bụng mình :
“Anh có biết thằng nhóc này là con ai không ?”
Ong cán bộ “ban tổ chức” cười thích chí :
“ Sao em biết nó là con trai ?”
“ Nó là con em sao em lại không biết ? Thằng này sau này sẽ nối
dõi anh đó…”
Ong cán bộ “Ban tổ chức” mở cờ trong bụng . Ong vốn có hai con,
một trai, một gái, tập kết ra Bắc, vợ con ông ở lại miền Nam trong vùng “Mỹ
nguỵ” kiểm soát, mấy lần ông cho người móc nối đưa ra “ khu” nhưng đều bị từ
chối. Ong lo hai đứa con bị địch “tuyên truyền” sẽ đi ngược lại lý tưởng bố
nó, đi vào con đường “phản dân hại nước”
, ảnh hưởng tới uy tín chính trị của ông. Bởi vậy ông báo cáo với tổ
chức,xin “cắt đứt” vợ con vì không chịu rời bỏ “vùng địch” ra khu theo
giao liên ra Bắc đoàn tụ với ông.
“Giải quyết “ xong bà vợ miền Nam, ông được trung ương giới
thiệu cưới ngay một cô gái Bắc, quê ở căn cứ địa cách mạng Thái Nguyên ngày
xưa. Từ đó, trong thâm tâm, ông coi hai đứa đó không còn là con ông nữa. Báo
hại ông, bà vợ Thái Nguyên cứ “đực” ra, dù đủ thuốc thang, chạy thầy thợ vẫn
không chịu đẻ cho ông đứa nào. Hoá ra
đứa con đích thực, sau này có thể nối dõi tông đường nhà ông, thật không
ngờ lại nằm trong bụng cô gái đang kề
bên ông, cô nữ du kích đường số 5, vợ nhân viên của ông. Trước mắt cứ để nó
sống với ông bố hờ của nó, sau này khi trưởng thành cho nó biết gốc gác, nhất
định nó sẽ tìm về với ông.
Cô gái thấy ông “nhân tình già” nín lặng, biết “cá đang cắn
câu”, liền tấn công tiếp :
“ Nó là con anh, anh phải lo cho nó. Trước mắt, anh lo cho …bố
hờ của nó cũng tức là anh lo cho con anh chứ sao…”
Người tình già gật gù :
“ Thôi được, thôi được rồi, vài hôm nữa đi họp về anh sẽ ký
quyết định đề bạt chồng em lên ….Vụ phó
, được không ?”
Cô gái sướng mê tới, ôm lấy nhân tình già hôn lấy hôn để, rối
rít cảm ơn. Ngay khuya hôm đó, ông cán bộ “ban tổ chức” phải lên máy bay
đi nước ngoài, cô được “tha” và cho dù
đã khuya cô vẫn bổ về nhà báo tin mừng cho ông chồng “thiệt thòi”.
Lúc này ông đã ngon giấc, bị chuông gọi cửa dựng dậy , ông bực
mình, ra mở cửa cho vợ, càu nhàu :
“ Sao không ngủ lại, nửa đêm nửa hôm còn về làm gì ?”
Cô vợ ngớ ra nhìn chồng. Hoá ra lão ta đã “cam chịu” tới mức
không còn biết “ghen” là gì ? Nghĩ cũng…tội nghiệp ,”tò vò mà nuôi con
nhện” vẫn phải im thít, cấm không ca
cẩm, phàn nàn mà vẫn phải nhẫn nại hầu hạ, săn sóc vợ nữa chớ.
Nghĩ vậy cô thấy thương chồng không nỡ quát mắng như mọi lần
ông dám mở miệng trách cứ vợ. Cô dịu giọng :
“ Về muộn để mang tin vui cho anh …”
Ong chồng sáng mắt lên :
“ Tin vui ? Tin vui gì thế ? Anh lại được “phân” một đôi lốp
Sao Vàng nữa hả ? Hay là “phích” Trung Quốc ?”
Cô vợ cười tươi :
“ Còn hơn thế nhiều ?”
Ong chồng sáng mắt :
“ Anh được tham quan nước bạn à ?”
“ Còn hơn thế nữa. Nhưng em đang đói bụng lắm đây. Anh vào bếp
nấu cho em bát mì ăn liền em ăn cái đã. Rồi em sẽ cho anh biết tin vui…”
Ong vội chạy vào bếp trổ tài nấu nướng. Thời bao cấp mà có được
tủ lạnh Saratốp của Liên xô (cũ) như ông
là oai lắm. Phải là cán bộ trung cấp có bìa Tôn Đản như ông mới may ra.
Đã thế ông còn chất đầy tủ lạnh những thứ mà thời đó thằng “phó thường dân” khó
mà mơ tới. Nào giămbông, nào batê, nào xúc xích
Đức, cá hồi Nga…toàn những thứ phải có sổ mua hàng ở “chợ vua quan” tức
cửa hàng cung cấp Tôn Đản mới có . Bởi thế bát mì ông nấu tuyệt đối không phải
“mì không người lái” như của dân thường.
“Mì không người lái” là tên chỉ loại mì không có thịt, hay còn
gọi là “mì nước” thường bán ở các cửa hàng ăn mậu dịch quốc doanh. Từ này xuất hiện sau khi máy
bay Mỹ ném bom miền Bắc và phái máy bay không người lái vào do thám. Người ta
kể rằng có anh thanh niên vào cửa hàng ăn và dõng dạc hỏi mua một bát “ mì
không người lái”. Anh không ngờ phong trào
“an ninh nhân dân” tức mỗi người
dân là một người công an đã được phát động rầm rộ nên tai mắt công an nhan nhản
khắp nơi. Bởi vậy anh thanh niên lập tức bị gọi về đồn cho nhà chức trách hạch
hỏi :
“ Tại sao anh gọi mì do cửa hàng ăn mậu dịch quốc doanh phục vụ
lại là “mì không người lái”?”
Anh thanh niên tái mặt :
“ Tôi…tôi thấy người ta gọi thế tôi cũng gọi thế…mì không người
lái là mì suông không có thịt thôi mà…”
“ Anh định riễu cợt nền thương nghiệp xã hội chủ nghĩa đấy hả ?
Anh phải cải chính cho nhân dân nghe…”
Thế là anh thanh niên được đưa trở lại cửa hàng ăn, đứng ngay
giữa nhà mà nói to :
” mì không thịt gọi là mì
nước chứ không được gọi là mì không người lái…mì không thịt gọi là mì nước chứ
không được gọi là mì không người lái…”.
Cứ như thế anh thanh niên phải nhắc đi nhắc lại cho đủ…một ngàn
lần mới được tha bổng. Từ đó cụm từ “ mì
không người lái” biến mất khỏi các cửa hàng ăn mậu dịch quốc doanh. Người
nào cũng sợ chết nhát không dám nhắc tới nó. Trên bảng giá, nó được viết thành
chữ to và đậm là “mì nước”.
Câu chuyện này nghe nói được báo cáo lên tận Thủ tưởng Phạm văn
Đồng và mặc dù trong lúc Mỹ gia tăng mức độ oanh tạc miền Bắc, Đảng và Nhà nước
còn đang bận rộn ngổn ngang trăm công ngàn việc nhưng trung ương vẫn cho mở
Hội nghị “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” rất rầm rộ.
Tuy nhiên, ít người biết được rằng nó bắt nguồn từ câu “mì
không người lái” của anh thanh niên tội nghiệp kia. Cho đến nay trong các văn
kiện của “Hội nghị giữ gìn tiếng Việt”
nổi tiếng kia vẫn chưa đề cập tới một trong những nguyên nhân dẫn tới Hội nghị
đó là nhằm bảo vệ uy tín của nền thương nghiệp xã hội chủ nghĩa vốn đã bị dân
gian chửi “cái cứt gì cũng “phân”, hễ
“phân” thì như cứt…” ( “phân “ ở đây
xin hiểu là “phân phối xã hội chủ nghĩa”).
Tất nhiên, bát mì ông Thượng nấu cho cô vợ trẻ có rất “nhiều người lái” chứ không phải “ không
người lái” như ở cửa hàng ăn uống quốc doanh. Nào tôm tươi luộc sẵn, nào thịt
bò thái mỏng làm tái, nào lòng đỏ trứng gà ta…Bát mì hoành tráng và đồ sộ nom
ngon mắt còn hơn cả “ xủi cảo tôm tươi” mấy anh Tàu vẫn bán trên phố hàng Quạt.
Tiếc thay khi ông Thượng bưng bát mì tới thì cô vợ trẻ đã ngủ mất tiêu. Ong
đành đặt bát mì lên bàn, vớ cái quạt lại gần vợ phe phẩy đuổi muỗi cho cô ngon
giấc. Ong cứ ngồi ngắm nghía gương mặt vợ một cách say mê. Đôi lông mày tỉa tót
cong vút, đôi mắt với hàng mi dài nhắm nghiền, đôi môi hình trái tim mòng
mọng…càng ngắm ông càng thấy rạo rực trong lòng. Và rồi bất chợt mắt ông trố
ra. Trên vầng trán vợ ông thấy một sợi tóc lạ, vừa cong queo lại vừa…muối tiêu.
Một cái gì đó nhói đau trong lòng ông. Tóc này không phải của vợ ông.
(còn nữa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét